dân tộc nùng lạng sơn

Từ nhiều năm nay, ngày 2/9 là dịp để đồng bào dân tộc Nùng ở khắp các địa phương của tỉnh Lạng Sơn tập trung về khu tượng đài Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn để vui Tết Độc Lập. Đồng bào dân tộc Nùng Lạng Sơn chỉnh sửa trang phục đi chơi Tết Độc Lập Sáng 29/9, Thành ủy Lạng Sơn tổ chức hội nghị sơ kết công tác dân vận 9 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ công tác 3 tháng cuối năm 2022. Các đại biểu theo dõi báo cáo kết quả công tác dân vận 9 tháng đầu năm 2022. Theo báo cáo, trong 9 tháng đầu năm 2022, công tác dân NSND Triệu Thủy Tiên, dân tộc Nùng, Phó chủ tịch Hội di sản văn hóa tỉnh Lạng Sơn cho biết: Sáng sớm, khi nghe tin Then được tôn vinh tại phiên họp Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 14 của Tổ chức UNESCO làm cho bà cùng các cộng sự, nghệ nhân ở xứ Lạng phấn khởi, hân hoan. Theo thống kê, địa bàn huyện có hơn 90% dân tộc Mông sinh sống. Cùng với các dân tộc khác, người Mông đã kiến tạo nên một vùng đất trồng ruộng bậc thang cực kỳ đẹp và nổi tiếng khắp trong và ngoài nước. Vài nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Mông The leader of the Nùng Autonomous Territory was Voòng A Sáng, who was born on 19 March 1902 in Tấn Mài, Hà Cối District, Hải Ninh Province, Tonkin, French Indochina (present-day Hải Hà District, Quảng Ninh Province, Vietnam). [5] In 1914 he attended a military academy known as the học trường Thiếu Sinh Quân Núi Đèo Deutsche Frauen In Der Schweiz Kennenlernen. Trang phục Dao Lù Gang ở Mẫu Sơn, Lạng SơnLạng Sơn có nhiều dân tộc anh em Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay, Mông… Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục của đồng bào các dân tộc Lạng Sơn là một di sản văn hóa truyền thống độc đáo mang bản sắc đặc trưng của từng dân nhiên, một thực trạng chung hiện nay, do sự phát triển nhanh của xã hội, sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc đã phần nào ảnh hưởng đến nhận thức cũng như thị hiếu thẩm mỹ, một bộ phận không nhỏ người DTTS đã thay đổi thói quen mặc trang phục truyền thống bằng trang phục phổ thông, đặc biệt là ở lớp trẻ. Đặc biệt hiện nay, các làng nghề dệt thổ cẩm còn rất ít, các nghệ nhân biết dệt và may trang phục truyền thống ngày càng mai một; trang phục truyền thống bị pha tạp nhiều cả về chất liệu và kiểu dáng, khó phân biệt được trang phục của dân tộc nào…Trước thực trạng đó, ngày 18/1/2019, Bộ trưởng Bộ VHTT&DL đã có Quyết định số 209 về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Triển khai thực hiện đề án trên, UBND tỉnh Lạng Sơn đã có Kế hoạch số 117/KH-UBND, ngày 3/7/2019 về việc thực hiện “Đề án bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Định kỳ hằng năm, Sở VHTT&DL đã triển khai thực hiện bằng các chương trình, hoạt động cụ thể. Trong đó, việc tổ chức hội nghị, hội thảo là một trong những bước thu thập, tổng hợp, công bố các tư liệu, tài liệu, kết quả nghiên cứu của các chuyên gia, các nhà quản lý, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, nghệ nhân, chủ thể văn hóa. Từ đó nhận diện, đánh giá một cách đồng bộ, thống nhất, toàn diện các thành tố liên quan đến trang phục truyền thống của các DTTS Việt Nam trên địa bàn phục của phụ nữ dân tộc Nùng Lạng SơnTại Hội thảo đã có gần 30 tham luận của các đại biểu là nhà quản lý văn hóa, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa trong và ngoài tỉnh Lạng Sơn đóng góp ý kiến tập trung vào hai chủ đề những biến đối của trang phục các DTTS hiện nay - nguyên nhân, tác động và ảnh hưởng; báo chí Lạng Sơn với việc lan tỏa giá trị trang phục truyền thống các DTTS; bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị văn hóa trong trang phục truyền thống gắn với phát triển du lịch ở Lạng Sơn; tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức, hành động của cộng đồng về ý nghĩa, giá trị của công tác bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống…Hội thảo là cơ sở để Sở VHTT&DL tỉnh Lạng Sơn tiếp tục tham mưu đề xuất phương hướng, giải pháp bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trên địa bàn tỉnh gắn với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội địa phương. Dân tộc Tày tỉnh Lạng Sơn sinh sống thành từng cụm dân cư, thành từng làng, từng bản từ lâu đời. Người dân dựng nhà ở những sườn đồi thoai thoải hoặc những bãi đất,gò đồi ven sông. Đời sống người dân chủ yếu bằng nghề làm ruộng, trồng lúa nương, trồng ngô khoai sắn. Dân tộc Tày Lạng Sơn nói chung và cư dân Tày vùng núi Mẫu Sơn nói riêng đều có những nét tương đồng về tín ngưỡng lập miếu thờ cúng thổ công, thổ địa. Với quan niệm rằng mỗi vùng đất dù nhỏ bé hay rộng lớn đều có một vị thần cai quản về vạn vật tự nhiên, về sự sống và mọi sinh hoạt của từng gia đình cư trú trên vùng đất thần mà dân làng thờ phụng, tôn làm thần bảo trợ, có thể là thần đất, thần cây, thần đá, thần núi, thần sông. Có vùng dân xây miếu thờ người có công khai phá lập nên làng bản và bảo vệ dân làng, sau khi mất được người dân tôn làm thần, xây miếu thờ thần thành hoàng. Phục dựng lễ cúng của người Tày cổ trên núi Mẫu Sơn Cư dân vùng Mẫu Sơn tỉnh Lạng Sơn phần lớn là dân tộc Tày, dân tộc Nùng và dân tộc Dao. Dân tộc Nùng sinh sống chủ yếu ở ba xã Hải Tiến, Cao Lâu, Xuất Lễ. Làng bản người Nùng xưa thường được xây dựng theo hình vành khuyên theo một hệ thống phòng thủ rất chắc chắn. Các ngôi nhà trình tường được xây dựng ở giữa, xung quanh làng có đắp hệ thống tường bao quanh bằng đất nện, hoặc bằng đá xếp. Người Nùng thường sống chung nhiều thế hệ trong một gia Nùng có làn điệu hát sli Sloong hàu lưu truyền đến ngày nay. Dân tộc Dao sinh sống ở những sườn núi cao thuộc xã Mẫu Sơn, xã Công Sơn huyện Cao Lộc và xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình. Dân tộc Dao vùng Mẫu Sơn đến nay vẫn giữ được những phong tục tập quán truyền thống về trang phục, nếp sống và có tín ngưỡng thờ cúng riêng biệt, thể hiện tính tín ngưỡng cộng đồng cao là miếu thờ thần trên đỉnh núi Phặt Chỉ cùng với những nghi thức lễ độc đáo của người Dao. Dân tộc Tày sinh sống ở địa bàn thấp dưới chân núi, sườn đồi, ven đường giao thông thuộc xã Gia Cát huyện Cao Lộc và các xã Xuân Lễ, Bằng Khánh, Xuân Mãn, Hữu Khánh, Yên Khoái. Đời sống kinh tế cư dân Tày tương đối ổn Tày dễ tiếp thu và hòa nhập với văn hóa cộng đồng. Người Tày rất ít khi mặc quần áo dân tộc, nếu có chỉ còn những người già từ 70 tuổi trở lên còn giữ được những bộ quần áo ngày xưa, chỉ mặc vào những ngày cưới, ngày lễ hội. Dân tộc Tày vùng Mẫu Sơn là cư dân bản địa, Có những dòng họ sinh sống từ rất lâu đời, như các dòng họ Hà, họ Vi, họ Nông, họ Hoàng. Nhà ở xưa được xây dựng bằng bùn đất đỏ đóng khuôn tường dày từ 60- 80 cm còn gọi là nhà trình tường. Tường nhà được đóng kiến trúc theo kiểu pháo đài, Cửa chính được đóng thành hai lớp, lớp ngoài bằng gỗ chắc dày, có then ngang ốp xuống, lớp cửa trong bằng trấn song gỗ tròn to chắc chắn. Gian ngoài hai bên là gường ngủ, chính giữa là nơi tiếp khách, phía trên tường được đóng thành khuôn lui sâu khoảng 1m làm ban thờ tổ tiên. Gian trong một bên là bếp, một bên là phòng ngủ. Trần nhà làm bằng đất trộn rơm, cốt là thanh tre già có tác dụng phòng cháy rất nhà lợp ngói âm dương. Nhà trình tường có tác dụng phòng vệ, chống trả được người ngoài xâm nhập. Ấm vào mùa đông, mát lạnh vào mùa hè. Kiến trúc nhà trình tường cũng là một nét đặc trưng của người dân vùng biên ải, ngày nay nhà trình tường đã bị mai một dần, thay thế bằng nhà xây gạch ngói hoặc nhà cao tầng. Ở xã Gia Cát huyện Cao Lộc chỉ còn 5 ngôi nhà trình tường cổ còn giữ được. Riêng ở xã Yên Khoái người dân vẫn ở còn đến 30% ngôi nhà trình tường. Kiến trúc nhà trình tường, làng xây dựng hình vành khuyên khu vực vùng Mẫu Sơn cần đưa vào những tua du lịch. Về tín ngưỡng, dân tộc Tày vùng Mẫu Sơn mang đậm tín ngưỡng dân gian bản địa, ngoài tục thờ cúng tổ tiên trong nhà, người dân xã Gia Cát huyện Cao Lộc còn lập chùa thờ Phật tại chùa Bắc Nga có tên chữ là "Tiên Nga Tự".Theo truyền thuyết Chùa Tiên Nga trước vốn thờ thần tiên sau rước Phật vào thờ. Ở hậu cung còn có phiến đá khắc chữ thập nhị Tiên Nga. Chùa Bắc Nga nổi tiếng với lễ hội du xuân ngày 15 tháng giêng, thu hút hàng vạn người đến chùa cầu an và thưởng thức đặc sản lợn quay, mía mềm vùng Gia Cát. Từng thôn bản, người Tày còn lập miếu thờ các vị thần linh, tiếng Tày gọi là Thó tỳ. Tại Viện Nghiên cứu Hán nôm hiện còn tư liệu lưu trữ sách viết về "Tục lệ và xã chí" của hai xã Hữu Khánh và Yên Khoái trước năm 1920, cuốn sách đã phản ánh chân thực về bản sắc, tín ngưỡng phong tục tập quán của cư dân thời kỳ đó. Trước kia điều đầu tiên trong phong tục tập quán là tế lễ thần linh. Thần linh ở đây là thần núi, thần cây, thần đá, thần nông được người dân xây miếu thờ và tế lễ vào những dịp đầu năm, cuối năm. Đến nay khi đi qua những bản Lìm, Sa Kao, Nà Bó, Pò Cại ở xã Gia Cát huyện Cao lộc. Bản Lầy, Phiêng Phúc xã Xuân lễ; Bản Tẳng, Nà Ngần, Kéo Mật, Pò Thó, Pò Lục, Khòn Khoang thuộc xã Bằng khánh; Bản Khoai, Pác Tẳng, Pác Mạ, Nà Quân, Nà Phát xã Yên khoái... chúng ta còn thấy thấp thoáng Miếu thờ thổ công ở đầu thôn bản. Ở vùng núi thôn Nặm Pịa xã Mẫu Sơn huyện Lộc Bình hiện nay còn dấu tích ngôi đền cổ thờ thần núi và nhân thần. Ngôi đền cổ này theo đánh giá của nhà sử học giáo sư Trần quốc Vượng đây là ngôi đền của người Tày cổ vào khoảng thế kỷ X. Trải qua nhiều thế kỷ, sự thay đổi của môi trường, lịch sử xã hội...đến thế kỷ XIX người dân lập miếu mời các vị thần trên đền cổ về thờ ở bản Khoai xã Yên khoái . Miếu thờ thần linh thổ công thường được xây dựng ở vị trí cao ráo, lưng tựa núi, miếu ẩn mình dưới gốc cây đa, cây si, cây gạo hoặc những cây cổ thụ. Hướng miếu thường nhìn ra ngã ba đường, sông suối, hoặc ở nơi đầu bản , nhìn ra nơi con người qua lại. Miếu dựng đơn giản chỉ bằng bốn cột gỗ, lợp mái tranh, hoặc lợp ngói âm dương, Bên trong miếu kê tấm ván, hoặc một tảng đá phẳng trên đặt bát hương. Miếu được dán giấy đỏ trong ban thờ và ngoài cửa. Những làng bản đông dân cư, miếu thờ được xây cất cẩn thận bằng trình tường, gạch, lợp ngói. Hàng năm tuần tự vào dịp lễ tết được quy định như mùng 15 tháng giêng; 2 tháng 2 âm lịch; mùng 3 tháng 3; mùng 5 tháng năm; mùng 6 tháng 6; 15 tháng 7; 15 tháng 8; mùng 6 tháng 10 và 23 tháng chạp người dân lên miếu làm lễ cúng thổ công. Nhất là ngày 2 tháng 2 âm lịch hàng năm là ngày cúng thần linh thổ công, các gia đình đều sắm lễ lên miếu cúng thần. Đồ lễ thường là con gà luộc, chai rượu trắng, bánh chưng, thịt lợn luộc, các loại rau sào... người đến trước kẻ đến sau, thầy mo làm lễ khấn trình thần linh với ước nguyện cầu xin thần linh bảo trợ, phù hộ cho một năm mới gia đình, làng xóm, người người từ con trẻ đến người già được khỏe mạnh, cửa nhà bình an. Gia đình chăn nuôi lợn gà, trâu bò ... được mau lớn, sinh sôi đầy đàn. Lúa ngô khoai sắn... mùa nối vụ bội thu, cuộc sống no đủ hạnh phúc. Khấn lễ xong với một niền tin tưởng thần linh đã chấp nhận lời thỉnh cầu của mình, mọi người bưng lễ ra trước miếu, cùng nhau uống rượu, thụ lộc vui vẻ. Xây chùa thờ Phật, lập đền, miếu thờ thổ công thần linh là một nét đẹp mang tính nhân văn trong phong tục tập quán của người Tày vùng núi Mẫu sơn. Tín ngưỡng thờ thổ công thần linh mang tính trách nhiệm, cộng đồng cao của người dân thôn bản trong những nghi thức ngày lễ tết. Mỗi ngôi miếu ở từng thôn bản đều có những giai thoại, truyền thuyết mang dấu ấn, lịch sử nguồn gốc về những vị thần được dân làng tôn vinh lập miếu thờ. Tìm hiểu được nguồn gốc của từng vị thần được thờ trong từng ngôi miếu sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự hình thành địa bàn cư dân, dân tộc. Hơn nữa từ xưa tới nay, trong đời sống con người luôn luôn gặp những khó khăn về thiên tai dịch họa trong lao động sản xuất, những nỗi đau vì bệnh tật và những điều ngang trái mà con người ta không tự giải quyết được, người dân thường lên miếu lễ, khẩn cầu các vị thần linh giải thoát phù trợ cho tai qua nạn khỏi, mọi sự được bình an. Điều này tuy là không tưởng âu cũng là con người có niềm tin ngoài cõi hư vô. Hệ thống tín ngưỡng chùa, đền cổ, miếu thờ thổ công của dân tộc Tày vùng núi Mẫu sơn rất có giá trị để các nhà khoa học nghiên cứu về tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc. Là một hệ thống tín ngưỡng thờ Phật, thờ Thần để các du khách có niềm tin, có tâm linh đến thăm quan, hành lễ. Để có một tua du lịch tín ngưỡng cần phải nghiên cứu, lập hệ thống danh sách, lịch sử nguồn gốc của từng ngôi miếu trong từng thôn bản giới thiệu với khách du lịch vùng núi Mẫu Sơn. Trung tâm Thông tin Xúc tiến du lịch Lạng Sơn Từ nhiều đời nay, người Nùng sống ở xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn sở hữu một bí thuật lạ lùng. Bệnh nhân dù rách da, đứt gân, vết thương máu chảy đầm đìa, nhưng khi tìm đến đây, người Nùng chỉ cần đọc một câu thần chú là có thể cầm máu ngay lập tức. Thuật cầm máu lạ kỳ Những người biết bùa chú này hiện còn lại rất ít, hầu hết đều vào cái tuổi gần đất xa trời. Một trong số những người đó là ông già mù Thi Giẳng ở thôn Đồng Đĩnh, xã Chi Lăng. Ông Giẳng năm nay đã 78 tuổi, đôi mắt mù lòa từ lúc bẩm sinh, chưa một lần biết đến ánh mặt trời. Ông Giẳng có đôi tai rất to, giọng nói sang sảng và đặc biệt tỏ ra vô cùng nhanh nhẹn. “Lão mù Thi Giẳng” bồi hồi kể lại ngày lặn lội đi học bùa chú Khi tôi hỏi về thuật cầm máu của người Nùng, ông Giẳng hướng đôi mắt mù lòa về phía tôi rồi trầm ngâm kể chuyện “Ngày xưa, lão đam mê thuật này lắm. Được biết thôn Quán Thanh Chi Lăng có một ông thầy cao tay về thuật này, lão dò dẫm tìm đường đến bái sư. Nhưng người thầy thấy lão mù lòa, dáng hình lại cổ quái nên kiên quyết không dạy. Được cái lão nhanh trí, biết thầy nghiện thuốc nặng nên lặn lội đi mua thuốc về biếu. Nhưng cũng phải vài lần, thầy mới chịu nhận lão làm đệ tử.” Tuy ông mù, không đọc được chữ nhưng chỉ nghe khẩu quyết vài lần là nhớ. Có lần, thầy muốn kiểm tra xem bùa chú có ở lại với ông Giẳng không bèn chặt một cây chuối non để nhựa cây trào ra xối xả. Ông Giẳng không ngần ngại đọc chú, nhựa cây đột nhiên ngừng chảy hẳn. Lần khác, thầy dùng cây xương rồng để thử tài ông Giẳng. Ông Giẳng nín hơi, đọc một mạch câu thần chú, y rằng nhựa không chảy ra nữa. Theo ông Giẳng, thuật niệm chú chữa thương áp dụng tốt cho người bị chảy máu ngoài da, còn những trường hợp đứt cụt hẳn ngón tay, ngón chân thì ông chưa từng gặp bao giờ. “Trường hợp nặng nhất tôi từng cầm máu là ông Bình ở thôn Quán Thanh. Năm 1960, ông này đi chặt cây thuốc lá, chẳng may bị dao lia vào chân, máu chảy xối xả, được người dân dìu vào nằm ở bờ sông. Có người lấy xe đạp chở tôi đến cầm máu cho ông Bình. Đọc chú được một lúc, máu ngừng chảy, tôi lấy giẻ rách bịt vào chân để người ta cõng ông ấy sang sông về nhà", ông Giẳng kể. Điều quan trọng nhất trong thuật cầm máu là phải nín hơi rồi đọc liền mạch câu thần chú mà không được thở, không để ngắt quãng. Cũng vì đã quá già, phổi không còn khỏe để nín hơi dài cả phút như trước nên đã 4 năm nay, ông Thi Giẳng chỉ chữa cho vài trường hợp chảy máu trầm trọng. Có lần, chính vợ của ông đang băm rau lợn thì vô tình để dao băm vào giữa ngón tay cái. Cũng may, ông đọc chú kịp thời mà bà cầm máu được ngay. Đến bây giờ, ngón tay bà vẫn còn một vết sẹo rất dài. Bài thuốc "của trời" nối liền xương gãy Ngoài ông Thi Giẳng, ở xã Chi Lăng, người biết đến thuật cầm máu bí truyền này phải kể đến vợ chồng ông Nông Quốc Vinh và bà Triệu Thị Cỏ. Khi ông Vinh đọc thần chú thì vết rách, vết đứt dù sâu đến đâu, dù máu chảy nhiều thế nào cũng đều có thể cầm máu. Còn bà Cỏ thì có vị thuốc bí truyền được bào chế từ 7 cây thuốc quý có thể làm lành xương khớp bị gãy chỉ trong 1 đến 2 tuần. 5 trong số 7 vị thuốc đó còn chưa có trong danh sách thảo dược của Nhà nước. Bà Triệu Thị Cỏ vui vẻ tiếp chuyện phóng viên. Ông Vinh năm nay đã 70 tuổi, còn bà Cỏ hơn chồng 2 tuổi. Trước đây, bà Cỏ là người Nùng ở sâu trong núi Vạn Linh, phải qua một con đèo khúc khuỷu mới đến được bản của bà. Ông Vinh đến với bà cũng là duyên phận, quý nhau từ bài thuốc, miếng bùa. Những ngày tháng chiến tranh đói nghèo, y học còn lạc hậu, chỉ với bài thuốc quý và câu thần chú, ông bà đã cứu bao nhiêu người khỏi mất mạng. Ông Vinh kể, ông được bố đẻ là ông Nông Văn Lộc đã mất truyền lại cho thuật cầm máu từ hồi nhỏ. Khẩu quyết niệm chú rất đơn giản, không cần bất cứ thủ tục cúng lễ gì khi thực hiện. Ông Vinh tụt dép, kéo quần lên chỉ cho tôi xem một vết sẹo rất sâu nơi ngón chân cái. “Một lần bất cẩn, tôi bị búa chặt vào chân, máu phun ra xối xả. Cởi giày ra, tôi lấy tay bóp mạnh chỗ vết thương rồi đọc thần chú. Đọc xong, ngón chân không chảy thêm một giọt máu nào nữa. Khu vực núi đó cách nhà chừng 9 km nhưng tôi vẫn tập tễnh đi bộ về lấy thuốc đắp cho liền thịt. Vài ngày sau thì lại đi làm bình thường được”, ông Vinh khoái chí kể. Bà Cỏ dù tuổi cao nhưng vẫn còn nhanh nhẹn lắm. Hỏi chuyện về bài thuốc chữa gãy xương, bà tự hào cho biết, cả vùng này chỉ mình bà biết cây thuốc để chữa. Bài thuốc này muốn công hiệu phải kiếm đủ 7 loài cây mà bà gọi là “7 cây thuốc trời”. Trong đó, chỉ có 1 cây mọc ven bờ ruộng, còn 6 cây khác mọc trên núi đá, phải tùy mùa mới có thể tìm được. Khi tìm đủ vị thuốc rồi, có loại lấy lá, có loại lấy thân, loại thì lấy rễ, đem băm nhỏ rồi sao khô. Người bị thương phải dùng nẹp tre cố định lại chỗ gãy, sau đó dùng rượu nặng tẩm vào thuốc đắp lên đó rồi bó vào. Bài thuốc này ngoài công dụng chữa gãy xương còn có thể làm lành vết thương rất hiệu quả. Bà Cỏ kể, cách đây khoảng một năm, có cô hàng xóm tên Bình gặp tai nạn xe máy, ngón tay út bị dập nát. Khi cấp cứu tại bệnh viện tỉnh, các bác sĩ khâu để cầm máu nhưng vết thương bị nhiễm trùng, chỉ còn cách tháo khớp ngón tay mới có thể cứu được. Cô Bình đã xin ra viện để về nhà suy nghĩ. Sau đó, cô cầu cứu tới phương thuốc bí truyền của bà Cỏ. Bà chữa đúng phép, chỉ 2 tuần sau, ngón tay cô Bình gần như đầy thịt, cũng không còn nhiễm trùng, sau 1 tháng là đã tháo băng. Theo lời bà Cỏ, mọi ca bệnh đến xin thuốc của bà đều khỏi, nhưng chỉ có trường hợp của cô gái tên Thắng khiến cho bà luôn áy náy. Năm đó, Thắng mới 15 tuổi, một lần đi chăn trâu bị ngã gãy xương khuỷu tay, được người nhà vội vã đưa đến nhà bà Cỏ. Bà lấy 4 thanh tre nẹp vào rồi bó thuốc cho cô. Nhưng do thấy bệnh nhân đau khóc dữ quá, bà bị cuống, lựa nhầm một thanh tre non làm nẹp, khiến cho xương tay của Thắng sau khi lành đã bị cong. Hai năm trở lại đây, vì tuổi cao sức yếu, không đủ sức lên tận đỉnh núi cao hái thuốc, bà Cỏ liền lấy vài loài cây hợp đất về trồng trong vườn. Bà bảo vườn thuốc của bà quý nhất là loài cây “Mắc chẻ phạ” quả của trời. Cây mọc như cây bụi, quả nhỏ li ti màu đỏ tía. Cây này rễ dùng ngâm rượu chữa bệnh kiết lị, đại tràng, đường ruột rất tốt. Còn quả của cây khi chín đem về ngâm rượu, đau răng chỉ làm một ngụm ngậm 5 phút là hết hẳn. Vườn nhà bà Cỏ còn có cây “Chiến thá tọt” lá to mà dài. Cây này ngâm rượu để bóp đau lưng, chữa xương khớp là nhất. 1 trong 7 vị thuốc quý mà bà Cỏ dùng chữa xương gãy là cây Cắng Linh cây con khỉ. Bà Cỏ kể “Ngày xưa, người Nùng đi rừng, thấy con khỉ mẹ lấy thân cây này nhai nát, rồi đắp lên những chỗ gãy xương hoặc chảy máu của khỉ con, mới mang về chữa cho người”. Bao năm qua, rất nhiều lần bà thử trồng loài cây này mà không được vì cây chỉ ưa sống ở đỉnh núi đá. Đến lúc hết hi vọng, định phạt chỗ đất đi để trồng cây khác thì lại thấy một mầm xanh hé nhú, mọc thành cây Cắng Linh như bây giờ. Bài thuốc quý chữa gãy xương, bà cũng truyền lại cho con gái. Các cô cũng ghi, cũng học nhưng dường như chẳng ai còn muốn lên đỉnh núi cao tìm thuốc như bà ngày xưa. Thần chú của ông Vinh, thuốc quý của bà Cỏ chẳng mấy năm nữa mà thất truyền nếu không truyền được lại cho ai. Phó trưởng trạm y tế xã cũng phải đến “cầu” thuốc Trực tiếp dẫn người viết vào nơi cư ngụ của những người Nùng nắm bí quyết bài thuốc lạ thường, anh Hoàng Văn Cường – Phó trưởng trạm y tế xã Chi Lăng, phụ trách lĩnh vực Đông y,cho biết “Bà Cỏ có rất nhiều cây thuốc, bài thuốc quý, nhiều cây trong danh sách thảo dược của Nhà nước còn chưa có. Tôi cũng không ít lần đến nhà bà Cỏ để xin thuốc, đặc biệt xin quả mắc chẻ phạ để chữa đau răng.” Trong bài viết này, các bạn hãy cùng Địa Ốc Thông Thái tìm hiểu một cách chi tiết về dân tộc Nùng nhé. Các nội dung bao gồm phong tục tập quán, hoạt động sản xuất, văn hóa, trang phục, tổ chức cộng đồng, tập tục cưới xin, sinh đẻ, ma chay của người Nùng. Tổng quan về người Nùng Tên gọi khác Xuồng, Giang, Nùng An, Nùng Lòi, Phần Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh, Quý Rịn, Nùng Dín, Khen Lài. Ngôn ngữ Tiếng Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái ngữ hệ Thái – Ka ai, cùng nhóm với tiếng Tày, tiếng Thái, và nhất là tiếng Choang ở Trung Quốc… Dân số người Tổng điều tra dân số 2019. Cư trú Sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang. Lịch sử Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm. Hình ảnh dân tộc Nùng trong trang phục truyền thống. Tác giả Nguyễn Minh Ngọc. Trang phục truyền thống của dân tộc Nùng ặc điểm trang phục ít có biểu hiện đặc sắc về phong cách tạo hình áo nam giống nhiều dân tộc khác, áo nữ là loại năm thân màu chàm, quần chân què ít trang trí. iểm khác nhau giữa các nhóm, một trong những biểu hiện là cách đội khăn và các loại khăn trang trí khác nhau đôi chút. Hình ảnh dân tộc Nùng trong bộ tem “Cộng đồng các dân tộc Việt Nam” phát hành năm 2005. Bộ tem đã được ghi vào sách kỷ lục Việt Nam là bộ tem lớn nhất từ trước tới nay. Nhà Tày – Nùng có những đặc trưng riêng không giống các cư dân khác trong cùng nhóm ngôn ngữ Tày – Thái. Bộ khung nhà Tày – Nùng cũng được hình thành trên cơ sở các kiểu vì kèo. Có nhiều kiểu vì kèo khác nhau, nhưng chủ yếu là bắt nguồn từ kiểu vì kèo – ba cột. ể mở rộng lòng nhà người ta thêm một hoặc hai cột vào hai bếp vì kèo ba cột để trở thành vì kèo năm hoặc bảy cột. Song không có vì kèo nào vượt quá được bảy cột. Bộ khung nhà chúng ta dễ nhận ra hai đặc trưng Ô vì kèo, đứng trên lưng xà, kẹp giữa hai cột có một trụ ngắn hình “quả bí” hay quả dưa nghé qua, đầu đấu vào thân kèo. ệ liên kết các cột trong một vì kèo hay giữa các vì kèo với nhau, người ta không dùng các đoạn xà ngắn mà dùng một thanh gỗ dài xuyên qua thân các cột. Mặt bằng sinh hoạt của nhà Tày – Nùng trên cơ bản là giống nhau mặt sàn chia làm hai phần một dành cho sinh hoạt của nữ, một dành cho sinh hoạt của nam. Các phòng và nơi ngủ của mọi thành viên trong nhà đều giáp vách tiền và hậu. Nói đến nhà Tày – Nùng có lẽ không nên bỏ qua một loại hình nhà khá đặc biệt, đó là “nhà phòng thủ”. Thường là có sự kết hợp gữa nhà đất và nhà sàn đúng hơn là nhà tầng. Tường xây gạch hoặc trình rất dày 40-60cm để chống đạn. Trên tường còn được đục nhiều lỗ châu mai. Có nhà còn có lô cốt chiến đấu. Loại nhà này chỉ có ở Lạng Sơn gần biên giới phía bắc để phòng chống trộm cướp. Tập tục khi làm nhà mới Làm nhà mới là một trong nhiều công việc hệ trọng. Vì thế khi làm nhà người ta rất chú ý tới việc chọn đất, xem hướng, chọn ngày dựng nhà và lên nhà mới với ước mong có cuộc sống yên vui, làm ăn phát đạt. Hoạt động sản xuất – kinh tế Nguồn sống chính của người Nùng là cây lúa và cây ngô. Họ kết hợp làm ruộng nước ở các vùng khe dọc với trồng lúa cạn trên các sườn đồi. ồng bào Nùng còn trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm như quýt, hồng… Hồi là cây quí nhất của đồng bào, hàng năm mang lại nguồn lợi đáng kể. Các ngành nghề thủ công đã phát triển, phổ biến nhất là nghề dệt, tiếp đến là nghề mộc, đan lát và nghề rèn, nghề gốm. Người Nùng làm việc rất thành thạo nhưng do cư trú ở những vùng không có điều kiện khai phá ruộng nước cho nên nhiều nơi họ phải sống bằng nương rẫy là chính. Ngoài ngô, lúa họ còn trồng các loại củ, bầu bí, rau xanh…Họ biết làm nhiều nghề thủ công dệt, rèn, đúc, đan lát, làm đồ gỗ, làm giấy dó, làm ngói âm dương… Nhiều nghề có truyền thống lâu đời nhưng vẫn là nghề phụ gia đình, thường chỉ làm vào lúc nông nhàn và sản phẩm làm ra phục vụ nhu cầu của gia đình là chính. Hiện nay, một số nghề có xu hướng mai một dần dệt, một số nghề khác được duy trì và phát triển rèn. Ở xã Phúc Sen huyện Quảng Hoà, Cao Bằng rất nhiều gia đình có lò rèn và hầu như gia đình nào cũng có người biết làm nghề ở vùng người Nùng phát triển. Người ta thường đi chợ phiên để trao đổi mua bán các sản phẩm. Thanh niên, nhất là nhóm Nùng Phàn Slình, thích đi chợ hát giao Ở nhiều vùng người Nùng ăn ngô là chính. Ngô được xay thành bột để nấu cháo đặc như bánh đúc. Thức ăn thường được chế biến bằng cách rán, xào, nấu, ít khi luộc. Nhiều người kiêng ăn thịt trâu, bò, chó. Phương tiện vận chuyển Các phương thức vận chuyển truyền thống là khiêng, vác, gánh, mang, xách. Hiện nay ở một số địa phương người Nùng sử dụng xe có bánh lốp do các vật kéo để làm phương tiện vận chuyển. Tổ chức cộng đồng người Nùng ồng bào Nùng sống thành từng bản trên các sườn đồi. Thông thường trước bản là ruộng nước sau bản là nương và vườn cây ăn quả. Quan hệ xã hội Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Nùng đã đạt đến trình độ phát triển như ở người Tày. Ruộng và nương thâm canh đã biến thành tài sản tư hữu, có thể đem bán hay chuyển nhượng. Hình thành các giai cấp địa chủ và nông dân. Văn hóa nghệ thuật Người Nùng thích ăn các món xào mỡ lợn. Món ăn độc đáo và được coi trọng là sang trọng của đồng bào là “Khau nhục”. Tục mời nhau uống rượu chéo chén có lịch sử từ lâu đời, nay đã thành tập quán của đồng bào. ồng bào Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú và có nhiều làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Tiếng Sli giao duyên của thanh niên Nùng Lạng Sơn hòa quyện vào âm thanh tự nhiên của núi rừng gây ấn tượng sâu sắc cho những ai đã một lần lên xứ Lạng. Then là làn điệu dân ca tổng hợp có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểu diễn đã làm rạo rực tâm hồn bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương. Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau là hội “Lùng tùng” còn có nghĩa là hội xuống đồng được tổ chức vào tháng giêng hàng năm. Phong tục cưới hỏi của người Nùng Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu và khi yêu nhau họ thường trao tặng nhau một số kỷ vật. Các chàng trai tặng các cô gái đòn gánh, giỏ đựng con bông hắc lì và giỏ đựng con sợi cởm lót. Còn các cô gái tặng các chàng trai áo và túi thêu. Tuy nhiên hôn nhân lại hoàn toàn do bố mẹ quyết định, trên cơ sở hai gia đình có môn đăng hộ đối không và lá số đôi trai gái có hợp nhau hay không. Nhà gái thường thách cưới bằng thịt, gạo, rượu và tiền. Số lượng đồ dẫn cưới càng nhiều thì giá trị của người con gái càng cao. Việc cưới xin gồm nhiều nghi lễ, quan trọng nhất là lễ đưa dâu về nhà chồng. Sau ngày cưới cô dâu vẫn ở nhà bố mẹ đẻ cho đến sắp có con mới về ở hẳn nhà chồng. Tục sinh đẻ của người Nùng Ngoài lễ đặt bàn thờ bà mụ và lễ mừng trẻ đầy tháng ở một số nhóm Nùng còn tổ chức lễ đặt tên cho trẻ khi chúng đến tuổi trưởng thành. Phong tục tang ma của người Nùng Có nhiều nghi lễ với mục đích chính là đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Phong tục thờ cúng của người Nùng Thờ tổ tiên là chính. Bàn thờ đặt ở nơi trang trọng, được trang hoàng đẹp, ở vị trí trung tâm là bức phùng slằn viết bằng chữ Hán cho biết tổ tiên thuộc dòng họ nào. Ngoài ra còn thờ thổ công, Phật bà Quan âm, bà mụ, ma cửa, ma sàn, ma ngoài sàn phi hang chàn… và tổ chức cầu cúng khi thiên tai, dịch bệnh… Khác với người Tày, người Nùng tổ chức mừng sinh nhật và không cúng giỗ. Phong tục ngày tết Người Nùng ăn tết giống như ở người Việt và người Tày. Lịch của người Nùng Người Nùng theo âm lịch. Chữ viết và học tập của người Nùng Có chữ nôm Nùng dựa theo chữ Hán, đọc theo tiếng Nùng và chữ Tày – Nùng trên cơ sở chữ cái La-tinh. Lễ hội và vui chơi của người Nùng Trong các ngày tết, ngày lễ, ngày hội thường có một số trò chơi như tung còn, đánh cầu lông, đánh quay, kéo co… Mang đồ dẫn cưới sang nhà gái. NDO - Dân tộc Nùng là một trong những sắc dân có dân số đông ở Việt Nam, sinh sống phần lớn ở các tỉnh miền núi phía bắc. 1. Nguồn gốc lịch sử Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm. 2. Dân số Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, người Nùng có người. Trong đó, có nam và nữ. 3. Ngôn ngữ Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái ngữ hệ Thái – Kađai. 4. Phân bố địa lý Dân tộc Nùng sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Bắc Giang, Quảng Ninh, Lào Cai, Yên Bái. 5. Đặc điểm chính Nhà ở Ngôi nhà truyền thống tiêu biểu của dân tộc Nùng là ngôi nhà sàn, lợp ngói máng, có ba tầng sử dụng. Tầng 1 là gầm sàn dành cho gia cầm, gia súc, công cụ sản xuất; tầng 2 là sàn dành cho người ở và các đồ dùng sinh hoạt; tầng 3 là gác, làm kho chứa lương thực, các thứ khác được bảo quản ở nơi khô ráo. Phía trước nhà có sàn phơi. Ở một số vùng, người Nùng làm nhà trình tường. Trong nhà ở của người Nùng, bếp không chỉ để nấu ăn, mà còn để sưởi ấm, nhất là mùa đông giá lạnh. Người Nùng trong trang phục Then.Ảnh KHIẾU MINH • Trang phục Y phục truyền thống của người Nùng khá đơn giản, thường làm bằng vải thô tự dệt, nhuộm chàm và hầu như không có thêu thùa trang trí. Nam giới mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, có hàng cúc vải. Phụ nữ mặc áo năm thân, cài cúc bên nách phải, thường chỉ dài quá hông. Phụ nữ Nùng đội khăn vuông, chít kiểu mỏ quạ. Nam giới Nùng đội mũ, nhất là khi tiến hành các nghi lễ mang tính tâm linh. • Ẩm thực Người Nùng cũng ăn cơm gạo tẻ, ăn xôi và chế biến nhiều món ăn từ gạo tẻ và gạo nếp. Từ gạo tẻ, đồng bào làm cao quyển, cao xằng, từ gạo nếp chế biến xôi màu tím, đen, đỏ, vàng, xôi trám đen, xôi trứng kiến; chế biến thành các loại bánh. Ngoài các món ăn thông thường, người Nùng có một số món ăn đặc sản gắn với các dịp lễ tiết. Vào dịp tết Nguyên đán, người Nùng hay mổ gà trống thiến, gói bánh chưng loại bánh dài. Tết cuối tháng Giêng, đồng bào hay làm bánh ngải bánh dày với lá ngải cứu non... Ngày cưới, ngày sinh nhật nhất định phải có món lợn quay nhồi lá mắc mật. • Tôn giáo, tín ngưỡng Người Nùng tin theo tín ngưỡng đa thần là chính. Họ thường thờ ba đời bố mẹ, ông bà, cụ. Thờ cúng thần linh được thực hiện thông qua các lễ hội lùng tùng, cầu mùa. Trong cách thờ cúng cũng như các quan niệm ứng xử thể hiện dấu ấn của tam giáo Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo. Trong thực hành tín ngưỡng của dân tộc Nùng, nổi bật vai trò của các thầy cúng Tào, Mo, Pựt, Then. -Nghệ thuật Nét đặc trưng nhất trong văn nghệ dân gian của dân tộc Nùng là then. Đây là một nghi thức trình diễn vừa mang tính nghệ thuật, vừa mang tính tâm linh. Thầy Then là người sáng tạo cả về lời ca và giai điệu. Cây đàn tính không có phím cho nên thầy Then hoàn toàn có thể ngẫu hứng tạo âm trên cây đàn. Mang yếu tố tâm linh khi gắn liền với nhiều nghi lễ cúng cầu, nhưng Then cũng hoàn toàn mang tính lễ hội khi gắn với những sự kiện trong cuộc đời con người, hoặc vào những dịp mừng năm mới…. Một loại dân ca rất đặc trưng khác của người Nùng là sli. Sli là hát giao duyên của thanh niên nam nữ dưới hình thức diễn xướng tập thể, thường là đôi nam, đôi nữ hát đối đáp với nhau và được hát theo hai bè. Điều kiện kinh tế Về trồng trọt, người Nùng canh tác ở những vùng đất bằng phẳng và cả những nơi đất dốc, đất đồi, vườn quanh nhà. Lúa nước là cây trồng truyền thống của đồng bào Nùng. Việc trồng cây hồi và bán các sản phẩm từ hồi cũng mang lại thu nhập cho đồng bào. Ngoài ra, người Nùng còn trồng các loại cây có giá trị cao khác như trẩu, sở, thuốc lá, chè, mía, tre, trám, bông, chàm... Chăn nuôi có một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế cũng như trong đời sống sinh hoạt của người Nùng. Vật nuôi phổ biến là trâu, bò, ngựa, dê, lợn; gà, vịt, ngan, ngỗng; chó, mèo; ong, tằm, cá nuôi ở ao hoặc ngay ruộng lúa. Họ biết làm nhiều nghề thủ công dệt, rèn, đúc, đan lát, làm đồ gỗ, làm giấy dó, làm ngói âm dương... Nổi bật là nghề rèn được duy trì và ngày càng phát triển, đặc biệt ở xã Phúc Sen huyện Quảng Hoà, Cao Bằng. Chợ ở vùng người Nùng phát triển, đặc biệt tập trung nhiều người Nùng đông nhất vào những ngày phiên truyền thống. Với địa bàn tụ cư truyền thống ở các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc, người Nùng có các hoạt động mậu biên sôi nổi. Không chỉ buôn bán tiểu ngạch, người Nùng còn tham gia làm bốc xếp, xe ôm, làm thuê trong sản xuất nông nghiệp. Các hoạt động này diễn ra cả ở nội địa và bên kia biên giới. Điều kiện giáo dục Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 90%; tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp tiểu học 100,9%; ở cấp trung học cơ sở là 97,2%; ở cấp trung học phổ thông 73,4%. Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, viết chữ dân tộc mình là 14,3%. Tỷ lệ trẻ em dân tộc Nùng trên 5 tuổi được đi học chiếm 99,6%. Nguồn - Các dân tộc ở Việt Nam Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật - Đặc trưng cơ bản của 54 dân tộc thiểu số năm 2019 Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê - Website Ủy ban Dân tộc - Kết quả điều tra thu thập thông tin về tình trạng kinh tế xã hội của 54 dân tộc thiểu số năm 2019 Ủy ban Dân tộc Việt Nam – Tổng cục Thống kê

dân tộc nùng lạng sơn