truyện ngắn alice munro

Bậc thầy truyện ngắn đương đại Alice Munro - chủ nhân giải Nobel 2013 - kể về một chuyện tình như bao chuyện tình, nhưng vẫn thấm đẫm dấu ấn văn chương riêng có ở bà. "Vừa thấm thía vừa gay gắt, vừa hài hước vừa u hoài, vừa mỉa mai vừa kịch tính" (Library Journal). Đăng bởi: hmh2701 252058 - 21281 - 200 Hiii :3 H nè ~ Những đoản văn bách hợp hài hước , lầy lội , cục súc , và vô Munro nghĩ sẽ viết truyện ngắn trong một thời gian nhưng rồi cuối cùng thể loại này đã quyến rũ bà. 3. Mặc dù thành công vang dội với thể loại truyện ngắn, Munro thường nói về ước mơ viết được một cuốn tiểu thuyết. Trong cuộc phỏng vấn với tờ Guardian năm 2003, bà nói rằng: "Tôi vẫn đang cố gắng" . 4. Tuy vậy, dần dần nàng nhận ra trong con người tật nguyền này là một nhà bác học lỗi lạc, một nghệ sỹ kỳ tài, con người có trái tim nồng nhiệt, tinh tế và cũng hết sức kiêu hãnh. Chính giữa lúc tình yêu của hai người đang lên tới độ nồng nàn nhất, Bá tước bị Vua Louis 14 và Giáo hội ganh ghét, tống giam vào ngục Bastile. Đến năm 2013, Alice Munro, được giải Nobel vì toàn bộ truyện ngắn của bà; thì lý do Thiệp chỉ viết truyện ngắn nên không được xét giải Nobel, không còn giá trị nữa. khi đọc và so sánh truyện ngắn của Munro với truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, sẽ thấy rõ nhà văn Deutsche Frauen In Der Schweiz Kennenlernen. Alice Munro sinh ngày 10 tháng Bảy năm 1931 ở Wingham, Ontario, Canada, với tên khai sinh là Alice Ann Laidlaw. Cha của bà là chủ nông trại, mẹ là cô giáo. Bà trải qua tuổi thơ ở thị trấn Clinton, nơi bà cũng thường trở về sau này. Theo học đại học Western Ontario, nhưng rời trường sớm khi lập gia đình năm 20 tuổi. Bà và gia đình sống ở một đảo ngoài khơi Vancouver nhiều năm nay, coi sóc tiệm sách có tên là Munro. Hai ông bà có với nhau ba đứa con, hôn nhân của họ thời trẻ có một thời kỳ tan vỡ. Sinh quán của Alice Munro, Ontario, là tỉnh bang lớn nhất Canada, gần bên Ngũ Đại Hồ. Vùng phía nam của tỉnh là vùng có khí hậu ôn hòa, cảnh sắc xinh đẹp, đất nông nghiệp bằng phẳng, nhiều sông hồ. Trong truyện của Munro, có cảnh vật của Ontario hoặc thiên nhiên hoang dã trên đảo Vancouver. Truyện của bà viết về đời sống những người bình thường, với văn phong giản dị, trong trẻo và đẹp. Nhưng đó là bề ngoài dễ gây ngộ nhận. Thật ra văn của Alice Munro không dễ hiểu. Người đọc cần chú tâm đến từng chi tiết mà bà để lại dọc đường. Bên trong là sức mạnh của sự mô tả chính xác, phân tích sắc bén các xung đột, sự nghiêm khắc với thói dung tục và a dua, tính hài hước, và lòng trắc ẩn. Alice Munro nhận nhiều giải thưởng, trong đó ba lần giải General Governor, giải thưởng danh giá nhất Canada, và giải Man Booker International năm 2009. Dù sức khoẻ yếu, bà có khả năng làm việc đều đặn, bền bỉ. Tác phẩm tạm dịch Vũ Điệu Những Cái Bóng Hạnh Phúc Dance of The Happy Shadesgiải GG, Cuộc Đời Những Cô Gái và Đàn Bà Lives of Girls and Women, Bạn Nghĩ Bạn Là Ai Kia? Who Do You Think You Are, Những Mặt Trăng Của Mộc Tinh The Moons Of The Jupiter, Tiến Triển Của Tình Yêu The Progress of Love giải GG, Chạy Trốn Runaway. Năm 80 tuổi, xuất bản tập Quá Sức Hạnh Phúc Too Much Happiness. Tiếp sau đó, trước sự ngạc nhiên của nhiều người, tác phẩm mới Cuộc Đời Yêu Dấu Dear Life. Một truyện của bà, Gấu Về Qua Núi The Bear Came Over The Mountain, một chuyện tình cảm động, đã được Sarah Polley chuyển thành phim với các tài tử Julie Christie và Gordon Pinsent. Truyện ngắn sau đây, nguyên văn tiếng Anh “Miles City, Montana” rút từ tập The Progress of Love, 1985, NXB Alfred A. Knoft. Miles City là tên một thị trấn nhỏ, dân số không quá một ngàn người, Montana là một tiểu bang ở vùng Tây Bắc nước Mỹ, sát biên giới đáo, khiêm cung, Alice Munro không phải là người của công chúng, và ít khi xuất hiện trên báo chí, ngoại trừ tác phẩm của mình. Cách đây bốn năm, khi tôi đến nghe một buổi hội thảo ở Vancouver sau giải Man Booker International, với nhiều nhà văn nổi tiếng như Margaret Atwood đọc những tham luận xúc động, đầy yêu mến, nhằm tuyên dương tác phẩm của bà, Alice Munro đã không có mặt. Trên thế giới nhiều người vẫn không biết đến tên bà- mặc dù năm 2005, tuần báo Time đã chọn bà là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất- cho đến ngày 10 tháng 10 năm 2013 vừa qua. Ngày hôm đó, Ủy ban giải thưởng Nobel đã không thể liên lạc được với nhà văn để báo tin vui. Các độc giả cũng không tìm đọc bà như tìm đến các tên tuổi văn học khác, đôi khi họ bắt gặp bà một cách tình cờ trên kệ sách, và tự hỏi bà này là ai?Tôi chọn truyện “Miles City, Montana” vì đó là truyện ngắn đầu tiên của bà mà tôi được đọc, cách đây mười bốn năm, trong một thời kỳ hỗn loạn. Truyện của bà đã giúp tôi đứng lại, nhìn xuống, thấy được chính thật tình trạng của mình. Tôi dịch truyện ngắn này như một lời cám ơn lặng lẽ. Một cuộc trò chuyện với Alice Munro, người luôn lấp đầy những câu chuyện của mình bằng sự say mê đối với cái cách mà con người khắc họa cuộc sống của chính họ. Người phỏng vấn Trong phần giới thiệu cho tuyển tập mới đây của mình, Những câu chuyện được chọn, chị nói rằng, những câu chuyện của chị, theo năm tháng, “được phát triển ngày càng dài hơn, và theo một cách rời rạc hơn và khắc khe hơn và kì dị hơn”. Tại sao chị lại nghĩ chúng tiến triển theo cách này? Alice Munro Anh biết đấy, tôi không chắc tại sao điều này lại xảy ra, bởi vì khi tôi viết một câu chuyện, tôi không thật sự phân tích nó. Nhưng khi tôi hoàn thành câu chuyện rồi, tôi sẽ bắt đầu xem xét lại nó, tôi nghĩ rằng theo nhiều cách những thứ tôi đã viết phá vỡ tất cả các quy luật của một truyện ngắn. Nhưng tôi không lấy làm tiếc nuối gì đặc biệt khi điều này xảy ra; tôi nhận thấy tôi chỉ có thể viết ra những gì liên quan đến tôi. Vậy nên tôi không cố khiến chúng trở nên bình thường trở lại. Thật sự, nếu một câu chuyện muốn diễn ra theo một chiều hướng riêng biệt, tôi sẽ sẵn sàng để điều đó xảy ra. Tôi chỉ bày chúng ra đó và xem điều mà nó làm được. Người phỏng vấn Chị nói những câu chuyện của chị thường phá luật. Cụ thể nó diễn ra như thế nào? Alice Munro À, tôi có một ý tưởng. Một vài câu chuyện mà tôi say mê dường như không có một mốc thời gian và địa điểm đặc biệt. Không có một quy luật nào cho điều này cả. Nhưng vẫn có kha khá ý nghĩa về những câu chuyện tôi đã đọc. Trong tác phẩm của tôi, tôi có xu hướng bao trùm thật nhiều thời gian, quay về quá khứ và tiến về hiện tại, và thỉnh thoảng cách tôi thực hiện chúng không thật sự đúng thứ tự. Tôi cảm thấy đây chính là điều mà người khác cho rằng họ phải điều chỉnh, nhưng điều tôi muốn bày tỏ chính là sự việc phải là bất cứ thứ gì nó phải là, và chúng phần nào đó phải được hoàn thành theo chính cách này. Thời gian là thứ khiến tôi thấy thích thú một cách trọn vẹn – quá khứ và hiện tại, và cái cách mà quá khứ hiện ra khi con người ta thay đổi. Thứ gây hứng thú cho tôi là cách những câu chuyện này được tạo nên, từ những điều được hình thành ở những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời, và rời đi trong những giai đoạn khác nhau, và cách anh sử dụng câu chuyện để nhìn thấu chính mình, hoặc thỉnh thoảng chỉ để khiến cho cuộc đời dễ thở hơn. Người phỏng vấn Tôi để ý thấy rằng trong rất nhiều câu chuyện của chị, đặc biệt trong tuyển tập mới nhất, các nhân vật của chị đã tìm lại một sự kiện trong quá khứ – từ thời thanh niên hay thậm chí thời thơ ấu. Chị có thể nói thêm về thời gian như một chủ đề trong tác phẩm của chị? Alice Munro Có lẽ tôi nên nói rằng ký ức mang đến cho tôi những đãi ngộ lớn, bởi tôi nghĩ chúng ta đều kể những câu chuyện về cuộc đời mình cho chính chúng ta, cũng như cho những người khác. Vâng, những người phụ nữ làm vậy, bằng cách nào đó. Phụ nữ làm điều này thường xuyên hơn. Và tôi nghĩ, đàn ông, khi họ già đi họ cũng làm điều này, nhưng có lẽ bằng những cách thức khá khác biệt. Tôi lắng nghe cánh đàn ông nói chuyện, và họ sẽ kể về cuộc đời của họ trong những khoảng thời gian gian khó khăn những chuyến đi săn, trải nghiệm thời chiến, những lần họ rày la một cảnh sát. Và phụ nữ, … vâng, dĩ nhiên phụ nữ sẽ sinh con, và họ sẽ bị bệnh, và mọi chuyện khi họ chăm những đứa con của họ nữa. Tôi hầu như nói về phụ nữ ở độ tuổi của tôi, cho những người mà những điều tôi vừa kể trên chính là những điều trọng đại trong cuộc đời họ. Nhưng họ cũng dường như đang tìm kiếm một câu chuyện thật sự cảm động. Họ nghĩ về cuộc hôn nhân trước hoặc những cuộc tình vụng trộm và những điều này khiến họ kể về chuyện của họ như cách những người đàn ông kể về chuyến đi săn. Thứ gây hứng thú cho tôi là cách những câu chuyện này được tạo nên – thứ gì được đưa vào ở những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời, và thứ gì bị xóa đi trong những giai đoạn khác nhau, và cách anh sử dụng câu chuyện để nhìn thấu chính mình, hoặc thỉnh thoảng chỉ để khiến cho cuộc đời dễ thở hơn. Rất ít người muốn trông thấy cuộc đời họ luôn chỉ toàn những thứ vô ích. Người phỏng vấn Rất nhiều câu chuyện của chị là về phụ nữ. Chị nghĩ như thế nào về việc được gọi là nhà văn theo chủ nghĩa nữ quyền? Alice Munro Viết những câu chuyện về phụ nữ là điều rất tự nhiên đối với tôi – tôi là một người phụ nữ mà. Tôi không biết họ sẽ dùng từ gì để mô tả nếu một người đàn ông chỉ hầu như viết về đàn ông. Tôi luôn không chắc về ý nghĩa của từ “Nữ quyền”. Ngay từ đầu, tôi thường nói, vâng, dĩ nhiên tôi là một người ủng hộ nữ quyền. Nhưng nếu điều đó có nghĩa là tôi theo đuổi một kiểu lý thuyết nữ quyền nào đó, hoặc biết bất cứ điều gì về lý thuyết ấy, thì tôi không phải. Tôi nghĩ tôi ủng hộ nữ quyền chỉ theo nghĩa là tôi cho rằng trải nghiệm của phụ nữ là điều quan trọng. Đó chính là nền tảng thật sự của chủ nghĩa nữ quyền. Người phỏng vấn Khi đã trải qua một giai đoạn nghề nghiệp rồi, chị có thay đổi gì về kiểu phụ nữ mà chị viết về? Alice Munro Tôi không chắc là tôi có. Tôi không phải là nhà văn viết tự truyện, nhưng tôi khá theo sát cuộc đời của chính tôi về thứ tôi nghĩ về và trông thấy. Vậy nên, nếu bây giờ tôi viết chuyện về một người phụ nữ lớn tuổi đang nhìn lại cuộc đời mình, là bởi vì tôi đang ở chính cái giai đoạn này. Tôi từng là một phụ nữ trẻ khi tôi viết “Những anh em cao bồi dạo chơi” một câu chuyện về một đứa trẻ sống với bố của cô. Tôi từng ở cái tuổi ba mươi và tôi trở về lại với thời thơ ấu của tôi – vậy là, tôi thật sự có xu hướng nhìn lại. Tôi không có xu hướng nhìn ngắm hiện tại. Tôi phải nhìn mọi thứ trong cái gương chiếu hậu trước khi tôi có thể nắm được toàn bộ chúng. Tôi vẫn viết nhiều về những năm sáu mươi, cái thập niên đầy biến chuyển đối với phụ nữ ở tuổi tôi. Chúng tôi không trẻ đủ để thật sự đồng hành với thập niên đó, nhưng chúng tôi đã đủ trẻ để nhận ra rằng tất cả khả năng đã không khép lại với chúng tôi. Có là điều gì ở đó cứ tôi cứ nhìn lại và nhìn lại mãi. Nhưng suốt những năm sáu mươi ấy, tôi đã viết Cuộc sống của những cô gái và phụ nữ, về một giai đoạn sớm hơn nó nữa. Người phỏng vấn Trong “Nội thất gia đình”, một câu chuyện từ tuyển tập mới của mình, chị viết về một cô gái khám phá ra niềm đam mê viết của cô, và sự cự tuyệt của dì cô khi bà thấy bà trở thành một nhân vật trong những câu chuyện được xuất bản của cô cháu gái. Có phải câu chuyện này là trải nghiệm của chính chị? Alice Munro Không – không có điều gì trong đó thật sự xảy ra, nhưng nó thật sự đúng khi tôi còn trẻ, việc viết dường như quá quan trọng đối với tôi đến nỗi tôi hi sinh hầu như mọi thứ cho nó. Và hi sinh một vài người họ hàng sẽ không có gì là quan trọng cả. Bởi vì tôi nghĩ thế giới mà tôi viết về – thế giới tôi sáng tạo nên – theo cách nào đó có sức sống phi thường hơn cái thế giới mà tôi đang sống đây. Và tôi nghĩ nhiều nhà văn cũng nghĩ tương tự vậy. Khi anh già đi sự giận dữ của anh cần được viết giảm bớt một ít. Anh phải đối diện với sự thật đáng kinh ngạc là anh chắc chắn sẽ chết, một lúc nào đó. Vậy nên mọi thứ anh làm trong cuộc sống của anh dường như có vẻ cân đối hơn, bởi vì nó chỉ là một phần trong cuộc sống của anh. Người phỏng vấn Có bao giờ chị trải qua việc những người trong cuộc sống thực của chị nhận ra họ – đúng hoặc sai – trong câu chuyện của chị và đối chất với chị về chuyện này? Alice Munro Tôi từng trải qua một tình huống mà vài người nghĩ rằng họ ở trong một câu chuyện nhưng thực ra không hề, rất buồn về chuyện này. Và anh biết không, trong cái thị trấn nhỏ nơi tôi lớn lên, người ta không đọc nhiều – khi tôi bắt đầu xuất bản, dù sao thì – và họ không quen với kiểu viết ngôi thứ nhất. Vì vậy khi anh viết một cuốn sách và dùng ngôi xưng “Tôi”, sau đó họ đọc nó và thường nói “Đây là ai và cô ấy làm điều đó khi nào?” Bố của tôi nói “Cô ấy phải dùng trí tưởng tượng của mình, bởi vì theo như tôi biết, cô ấy không hề có bất cứ người bạn trai nào”. Người phỏng vấn Thật ra, tôi muốn hỏi chị về bối cảnh những câu chuyện của chị. Chị nổi tiếng về việc chỉ viết về một vùng đặc biệt – phía tây Ontario – và tôi muốn biết phản ứng của chị ra sao đối với việc được gọi là “nhà văn vùng miền”. Alice Munro Tôi không bận tâm chút nào nếu được gọi là nhà văn vùng miền nếu đều đó có nghĩa là trở thành ai đó giống như Eudora Welty. Đối với tôi, vùng miền rất quan trọng chỉ bởi tôi cảm thấy nó thật sinh động, nhưng tôi không nghĩ tôi đang viết những trải nghiệm chỉ giới hạn trong vùng miền đó. Tôi nghĩ nếu tôi lớn lên ở nơi nào đó trên lục địa, tôi sẽ dùng nơi đó làm bối cảnh cho câu chuyện của tôi, và các nhân vật sẽ có chút khác đi. Trong “Nội thất gia đình”, là câu chuyện khi tôi quay trở lại thời thơ ấu và thanh niên của tôi, những thứ nhất định tác động đến cô gái chính là điều riêng biệt đối với cộng đồng mà cô sống. Nhưng bản thân câu chuyện thì không. Khi tôi đọc, ví dụ, câu chuyện của Edna O’Brien về tuổi trẻ của cô ở Ireland, tôi cảm thấy một sự kết nối kinh khủng. Tôi không thật sự nghĩ rằng thứ chính yếu về một câu chuyện, là khiến cho một vùng đất trông sống động hơn. Tôi nghĩ nó chỉ khiến những điều bạn biết về cuộc sống trở nên sống động và lôi cuốn hơn. Và người ta có vùng miền ở khắp nơi – một vài vùng miền có thể không được xem như vùng miền. Ví dụ, một nhà văn Canada quan trọng khác, Mordecai Richler, người mới mất gần đây, viết chủ yếu về cuộc sống của người Do Thái ở Montreal, một ngôi làng. Ý của tôi là, ông viết về một kiểu ngôi làng, và tôi nghĩ tất cả chúng ta đều có những ngôi làng trong mình. Những nhà văn ảnh hưởng đến Alice Munro Người phỏng vấn Điều gì mà những nhà văn khác gây ảnh hưởng đến chị? Tựa đề trong tuyển tập mới của chị khiến tôi nghĩ tới Flannery O’Connor, nhưng chị đã không đưa nó theo hướng bi kịch anh hùng. Alice Munro Không, không hề. Và tôi nghĩ đó chính là thứ đang lớn dần khi tôi già đi những câu chuyện có những kết thúc có hậu. Những sự kiện có thể biến chuyển bất cứ cách nào nó muốn, và thỉnh thoảng đó là một chuyển biến may mắn. Dĩ nhiên, tôi không giả vờ rằng những nhân vật định danh, Johanna và Ken, đã sống hạnh phúc về sau, nhưng tôi nghĩ rằng họ đã sống hòa hợp với nhau. Và có thể đoán được rằng, cuộc sống sẽ phần nào tốt hơn cho cả hai. Vậy là, tôi đã chú ý xu hướng này của chính tôi. Tôi nghĩ một vài nhà bình luận đã nói về điều này, nhưng theo một cách còn hơi tối nghĩa. Và về người ảnh hưởng đến tôi, anh đã nói đúng ngay từ đầu. Khi tôi tầm hai mươi, tôi đọc Carson McCullers, Flannery O’Connor, Eudora Welty. Tôi ngưỡng mộ Eudora Welthy nhất. Nhưng tôi đọc hầu hết mọi thứ ở độ tuổi hai mươi, như mọi người thường làm. Tôi cảm thấy nó cần thiết. Và một ít tiểu thuyết hạ gục được tôi. Tôi bây giờ đang đọc lại Anh em nhà Karamazov, bởi vì tôi tìm thấy ở đó quá nhiều thứ tôi đã để lỡ khi đọc chúng lúc còn trẻ. Tôi đã không đọc phần nói về tiền bạc. Tôi chỉ đọc phần nói về cảm xúc. Anh biết đó, khi nó nói về tiền, tôi chỉ đơn giản lượt qua. Người phỏng vấn Chị có thể là một trong ít người thừa nhận không đọc hết một cuốn sách từ đầu đến cuối, dù không phải là người đầu tiên — Alice Munro Thật sự hoàn thành một cuốn sách! Vâng, điều này đúng. Nhưng tôi cũng nên đề cập đến Chekhov. Tất cả nhà văn viết truyện ngắn đều nói về Chekhov, nhưng thật sự, ông ấy rất quan trọng đối với tôi. Tất cả những nhà văn viết truyện ngắn đều sẽ thừa nhận điều này. William Maxwell là nhà văn Bắc Mỹ ưa thích của tôi, tôi nghĩ vậy. Và một nhà văn người Ireland từng viết cho tạp chí The New Yorker tên Maeve Brennan, và Mary Lavin, một nhà văn người Ireland khác. Có nhiều nhà văn tôi tìm thấy trên tạp chí The New Yorker ở độ tuổi năm mươi, viết về cùng loại đề tài với tôi – về cảm xúc và nơi chốn. Còn có nhiều người khác mà tôi chưa thể nghĩ ra ngây bây giờ. Tôi đọc mọi lúc, và tôi thường xuyên bị tác động bởi những thứ tôi đang đọc. Một câu chuyện không giống một con đường để đi theo… nó giống một căn nhà hơn. Người phỏng vấn Chị từng viết một tiểu luận tuyệt vời về cách chị đọc những câu chuyện. Chị nói “Một câu chuyện không giống một con đường để đi theo… nó giống một căn nhà hơn. Bạn đi vào bên trong nó, ở trong đó một lúc, thơ thẩn ra đằng sau, đằng trước, và sắp đặt lại chỗ bạn thích và khám phá ra cách căn phòng và hành lang liên quan với nhau, cách cái thế giới bên ngoài thay đổi khi được nhìn từ những ô cửa sổ này…” Alice Munro Đúng vậy. Tôi viết phần đó như một đoạn giới thiệu, tôi nghĩ, hoặc là một bài tiểu luận cho một người bạn của tôi. Đầu tiên, tôi không biết phải viết gì, bởi vì tôi không thật sự nghĩ về việc thế nào là một câu chuyện. Nhưng sau đó tôi nghĩ về cách tôi đọc, điều tôi đã nói trong đoạn tiểu luận ấy, là đi vào từng ngóc ngách trong câu chuyện. Tôi có thể diễn tả trong vài câu điều tôi nghĩ về một câu chuyện. Sau đó, tôi tiếp tục đọc, và tôi đọc tới, đọc lui, đọc hết. Tôi sẽ giống như bị rào quanh bởi câu chuyện và nhìn mọi thứ bên ngoài câu chuyện theo hướng khác hẳn – xuyên qua ô cửa sổ của ngôi nhà ấy. Và nó không chỉ giống như một lối mòn cho ta xem xét những điều xảy ra. Khá thường xuyên, tôi biết điều phải xảy ra ngay khi tôi bắt đầu đọc. Có thể không phải là những tình tiết, mà là chính câu chuyện muốn được kể ra. Trong “Ghét, Thân …” của tôi, cốt truyện khá quan trọng, nhưng thường xuyên, trong một câu chuyện, cốt truyện không thật sự là yếu tố quan trọng nhất. Người phỏng vấn Tôi cho rằng điều này không chỉ nói riêng về cách chị đọc, mà còn là về cách chị viết. Các câu chuyện của chị có xu hướng ít bị chi phối bởi cốt truyện, với “Ghét, Thân …” có lẽ là một ngoại lệ. Alice Munro Vâng, nhưng thậm chí ở đó, khi tôi bắt đầu viết nó, tôi đã bắt đầu với việc để những cô gái viết những bức thư. Theo cách ấy, toàn bộ mọi thứ sẽ bắt đầu như lệ thường. Nhưng sau đó, tôi xem xét lại chúng, tôi lại muốn bắt đầu nó ở một chỗ nào đó khác, điều mà tôi đã làm trong phiên bản cuối cùng. Người phỏng vấn Tôi muốn nói một ít về hình thức và cấu trúc trong cách viết của chị. Chị là một trong số ít nhà văn thành công trên thế giới tạo nên tên tuổi của mình chỉ bằng việc xuất bản các truyện ngắn. Điều gì đã cuốn hút chị đến với hình thức truyện ngắn? Alice Munro Tôi đã viết Cuộc sống của những cô gái và phụ nữ, truyện này hầu như đã là một tiểu thuyết, nhưng nó được chia thành nhiều phần như những câu chuyện. Vậy tại sao tôi thích viết truyện ngắn? Thật ra tôi không chủ tâm viết truyện ngắn. Tôi đã dự định viết tiểu thuyết. Và đến nay vẫn vậy. Tôi vẫn giữ lấy cái ý định viết tiểu thuyết. Và tôi thậm chí đã bắt đầu viết tiểu thuyết. Nhưng một vài điều xảy ra với chúng. Chúng thường tan vỡ. Tôi nhìn vào những tư liệu này, thử hình dung điều gì có thể được hình thành và nó không bao giờ trở thành một tiểu thuyết. Nhưng khi tôi còn trẻ, chính thực tế đã xui khiến tôi lựa chọn viết truyện ngắn. Tôi có con nhỏ, và tôi không có bất cứ sự giúp đỡ nào. Đây là lúc chưa có máy giặt tự động, nếu anh có thể thật sự tin, không có cách nào để tôi có thể tìm thấy thời gian cho mình. Tôi không thể nhìn về phía trước và nói, thứ này sẽ lấy của tôi một năm, bởi vì tôi nghĩ với mỗi khoảnh khắc, vài điều gì đó sẽ xảy ra và chiếm hết thời gian của tôi. Vậy nên tôi viết từng mẫu, từng mẫu với một thời gian giới hạn dự tính. Có lẽ tôi quen với việc nghĩ về những tư liệu của tôi rằng chúng sẽ hoạt động theo cách ấy. Và sau đó, khi tôi có thời gian, tôi bắt đầu viết những câu chuyện kỳ lạ này, thứ được mở rộng ra một chút. Nhưng tôi vẫn không viết một tiểu thuyết, dẫu cho tôi có ý định chăng nữa. Người phỏng vấn Tôi thật sự nghĩ một vài truyện gần đây của chị là tiểu thuyết. Alice Munro Vâng, tôi cũng nghĩ vậy. Đó có lẽ là thứ tôi sẽ tiếp tục viết. Người phỏng vấn Hãy nói một ít về trẻ con trong những câu chuyện của chị. Trong “Ghét, Thân..” trẻ con thay đổi toàn bộ quỹ đạo của cuộc sống một người trưởng thành. Và trong những câu chuyện khác của chị, những thứ xảy ra trong thời thơ ấu thật không vô nghĩa chút nào. Trẻ con là những nhân vật có thật, trọn đầy, những đứa trẻ sống một cuộc sống đầy cảm xúc và cả đau đớn. Alice Munro Vâng, vâng. Tôi nghĩ trong trường hợp của nhiều nhà văn tôi từng đọc, sự kiện thời thơ ấu thật sự không bao giờ mất đi hoặc bị vứt bỏ cả. Chúng có thể được tìm thấy trong những cách khác nhau nhưng không bao giờ mất đi. Có lẽ đối với vài người chúng sẽ mất đi. Nhưng một vài điều trong mỗi nhà văn khiến họ muốn gợi lại được những điều này, dẫu chúng khá là khó chịu và có thể mang tính tàn phá. Không phải theo cách anh sẽ được giải phóng khỏi chúng hoặc khiến chúng tốt hơn, mà theo cách khám phá ra chúng, để thấy thứ gì đã thật sự xảy ra. Điều này thật sự quan trọng đối với tôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện sẽ khiến tôi trở nên tốt hơn. Ý của tôi là, gợi lại những câu chuyện không giống với điều bạn sẽ làm với một nhà trị liệu. Ở đây đơn giản chỉ là khám phá ra, lấy nó ra khỏi những lớp màn che, cố nhìn vào trong nó. Người phỏng vấn Sự rõ ràng này là thứ chị nhận được khi chị đã nghĩ xong một câu chuyện, hay là thông qua một tiến trình viết thực tế? Alice Munro Oh – khi tôi quyết định viết về nó. Khi tôi cảm thức được rằng đây là thứ tôi muốn viết về. Điều này có nghĩa là tôi đang trong tiến trình khám phá rồi. Tôi lắng nghe câu chuyện của nhiều người và cách họ nghĩ về cuộc sống của họ thường là “điều này không vui sao, chuyện gì đã xảy ra với tôi”? “điều này không kinh khủng sao, điều gì đã xảy ra với tôi?” và tôi cũng như vậy, anh biết không? ngay từ đầu, đó là thứ gì đó anh tìm kiếm từ quan điểm của anh. Nhưng sau đó khi tôi bắt đầu viết về nó, nó trở nên hoàn toàn khác lạ. Người phỏng vấn Rất nhiều nhân vật trẻ tuổi trong câu chuyện của chị có xu hướng rất khôn ngoan, thậm chí là khôn ngoan hơn cả những người lớn xung quanh chúng. Chúng ta hiếm khi thấy trẻ con trong những câu chuyện của chị thực tình ngu dốt, và tôi tự hỏi đây có phải là một điều gì đó hơn là lời chú giải về những đứa trẻ hay người lớn cư ngụ trong những câu chuyện của chị? Alice Munro Tôi cho rằng nó chính là một mẩu ký ức. Tôi không nhớ là tôi từng ngây thơ. Tôi luôn nhớ mọi thứ một cách rất phức tạp. Hầu như tôi nhớ đến tôi là chính tôi khi còn là một đứa trẻ, giấu giếm chính mình khỏi thế giới của người lớn và giáo viên và những người xung quanh mình. Đây có thể là một vài điều chúng ta phải đương đầu với thế hệ và nơi chốn. Nhưng thứ cuối cùng tôi nhớ được là nhu cầu được bảo vệ, nhu cầu cần được ẩn núp, nhu cầu được cải trang. Và điều này giúp cho bản thân bạn không bị tàn lụi. Thỉnh thoảng, thậm chí là bây giờ, tôi nghĩ về cách trẻ con được đối xử như thế nào. Nhiều cách thức về gây ảnh hưởng được áp dụng, như không trừng phạt, như đã từng được áp dụng với tôi. Anh biết đây, không để chúng một mình với những điều đã xảy ra với chúng. Đây có lẽ là quan điểm của tuổi của tôi. Tôi ngạc nhiên khi con người muốn bảo vệ trẻ con trước những điều tồi tệ, trước những kiến thức về chuyện đang xảy ra. Hoặc khi những cố vấn nỗi buồn hoặc cố vấn bi kịch vội vã trong việc giúp trẻ con vượt qua mọi thứ. Vâng, tôi ngạc nhiên về điều đó trong xa hội loài người. Có nhiều trải nghiệm phải được giải quyết, vượt qua, như thể sự không hạnh phúc và mất mát không phải là điều tự nhiên. Tôi thật sự chưa từng nói về điều này trước đây. Người phỏng vấn Chưa từng, nhưng nó thật sự rất thích hợp. Đặc biệt từ ngày 11 tháng 9. Alice Munro Vâng. Tôi đã ngạc nhiên khi nghe một người phụ nữ nói rằng cô ấy đã kể cho những đứa trẻ của cô những về nó, bởi vì những đứa trẻ chỉ mới bốn, năm tuổi. Cô kể cho chúng nghe những câu chuyện về việc người ta đốt pháo hay thứ gì đó. Tôi nghĩ, nó rất kì lạ. Tôi nghĩ, có phải trẻ con đang làm chính xác điều mà tôi đang làm – giữ kết luận của chính mình cho chính mình. Người phỏng vấn Thật sự rất thú vị khi nghe chị nói về nhu cầu chính đáng cần bảo vệ chính mình – và sau đó, đọc những câu chuyện liên quan trong tuyển tập của chị. Alice Munro Vâng, tôi đã vượt qua nó – tôi thật sự vượt qua được. Khi tôi lần đầu viết tôi viết những câu chuyện mô phỏng, cách mà mọi người đều làm. Nhưng khi tôi sử dụng chính những tư liệu của tôi, và thậm chí nếu nó không phải là tự truyện, mọi thứ dường như trở thành việc nhận ra được chuyến thám hiểm này là điều duy nhất tôi muốn làm, và tiếp tục làm. Nếu không tôi sẽ không viết. Nó không tốt nếu bắt đầu viết mà nghĩ rằng “tôi sẽ không đề cập đến nó bởi vì nó không đẹp.” Người phỏng vấn Rất nhiều câu chuyện gần đây của chị, đặc biệt trong tuyển tập mới đây, giải quyết với những đề tài nặng nề về sự mất mát, bệnh tật và cái chết. Alice Munro Vâng, tôi lấy từ những điều tôi học được khi tôi già đi. Bây giờ, tôi có khả năng có những người bạn đang chết vì ung thư hơn, hoặc những người phải đến sống trong nhà dưỡng sinh. Ý của tôi là, tôi chưa thật sự ở trong đó lắm, nhưng nó bắt đầu được ở đó. Có một câu chuyện trong tuyển tập mới của tôi tên là “Điều được ghi nhớ” nơi một người phụ nữ tìm về với tình yêu đơn phương của bà, hoặc những cuộc ăn chơi, và chồng bà đã chết. Và điều này gây nên một tác động đối với cách bà ta nhìn lại. Người phỏng vấn Nhưng, câu chuyện của chị, dẫu cho có thuộc về những đề tài ấy, cũng không bao giờ ủy mị. thậm chí trong “Cây cầu nổi”, câu chuyện về một người phụ nữ bị ung thư, chỉ khiến cho cô ấy lo lắng nhiều về trách nhiệm phải quay về thế giới thực sau lần trị liệu cuối cùng hơn là nỗi đau của chính căn bệnh mà cô ta đang mang. Alice Munro Oh vâng, tôi hi vọng chúng không ủy mị. bây giờ tôi nhìn mọi thứ khác đi. Khi tôi ba mươi, nếu tôi cố viết về ai đó đang chết dần vì ung thư, tôi sẽ bị tràn ngập bởi cái bi kịch ấy. Chỉ việc lớn lên cũng có một ảnh hưởng nhất định. Đó là trải nghiệm đơn giản về nơi tôi đang ở trong cuộc đời mình. Thực hiện bởi Cara Feinberg The Atlantic Cẩm dịch Khôn thích ồn ào và thể hiện nơi đám đông, Nobel Văn học 2013 trốn trong những quan sát, suy tư, trải nghiệm riêng về cuộc sống xung quanh để viết nên tác phẩm. Ấn tượng đầu tiên mà Alice Munro, nữ nhà văn 82 tuổi giành giải Nobel 2013, để lại cho người khác là nét đôn hậu, gần gũi với mái đầu bạc phơ, ánh mắt và nụ cười rạng rỡ ấm áp. Sinh ra và lớn lên tại thị trấn Wingham, Ontario, Canada, miền quê nhỏ bé này đã lặng lẽ đi vào đời sống tinh thần của Alice Munro, sau này là bối cảnh xuất hiện trở đi trở lại trong nhiều truyện ngắn của bà dưới những cái tên khác nhau như Jubilee, Hanratty... Alice Munro là con cả trong gia đình có ba người con. Mẹ bà là một giáo viên và cha là nông dân. Từ năm 10 tuổi, Munro đã đắm mình trong những cuốn sách và nuôi dưỡng giấc mộng văn chương. Sau khi rời trường phổ thông, bà giành được học bổng nghiên cứu báo chí và tiếng Anh tại Đại học Western Ontario, nơi đây, bà bán máu, làm bồi bàn, cuốn thuốc lá, thủ thư cùng nhiều công việc khác để kiếm tiền ăn học. Năm 1951, Munro bất ngờ nghỉ học để kết hôn với người bạn cùng trường James Munro. Vài năm sau đó, Alice cùng chồng chuyển tới sống ở Victoria, British Columbia, dồn vốn mở một hiệu sách có tên Munro's Books. Thường xuyên tiếp xúc sách báo cộng với niềm đam mê có sẵn, Munro vừa bán sách, vừa chăm con, vừa cho ra đời những tác phẩm của riêng mình. Chung sống với nhau được ba mặt con, Munro và chồng chia tay năm 1972. Năm 1976, bà đi bước nữa với nhà nghiên cứu địa lý Gerald Fremlin. Mặc dù vậy, bà vẫn giữ họ của mình theo họ người chồng đầu tiên - Alice Ann Munro. Nhà văn Alice Munro. Ảnh AP. Alice Munro bắt đầu viết truyện từ những năm tháng tuổi teen. Bà xuất bản truyện ngắn đầu tiên năm 1950, khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, tác phẩm có tên "The Dimensions of a Shadow". Năm 1968, khi Munro 37 tuổi, tuyển tập truyện ngắn "Dance of the Happy Shades" ra đời, nhận được sự chú ý lớn trong giới văn chương Canada. "Dance of the Happy Shades" cũng lập tức được trao giải Governor General - giải thưởng văn học lớn của Canada - dành cho lĩnh vực văn học hư cấu. Năm 1971, bà xuất bản tuyển tập truyện ngắn "Lives of Girls and Women", được các nhà phê bình đánh giá là một tiểu thuyết có tính giáo dục lớn. Sau đó, nhiều tuyển tập khác lần lượt ra đời "Something I've Been Meaning to Tell You" 1974, "Who Do You Think You Are?" 1978 - thắng giải Governor General, "The Moons of Jupiter" 1982, "Runaway" 2004 - tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt với tiêu đề "Trốn chạy", "The View from Castle Rock" 2006, "Too Much Happiness" 2009... Tuyển tập "Hateship, Friendship, Courtship, Loveship, Marriage" 2001 của Munro là chất liệu chính cho bộ phim "Away from Her" của đạo diễn Sarah Polley năm 2006. Tổng cộng, Alice Munro đã xuất bản 14 tuyển tập truyện ngắn trong quãng đời viết lách của mình, chưa kể nhiều tác phẩm lẻ khác. Tuyển tập gần đây nhất của bà là "Dear Lifer" phát hành năm 2012. Bà cũng nhận nhiều giải thưởng văn chương, trong đó có giải Man Booker Quốc tế 2009 và ba giải thưởng Governor General danh giá của Canada. Đầu năm nay, nhà văn 82 tuổi đã thông báo kế hoạch gác bút, rời bỏ công việc văn chương để tận hưởng những năm tháng cuối đời. Từng coi truyện ngắn chỉ là "bài tập" cho tiểu thuyết Ngày 10/10, Alice Munro vượt qua nhiều tên tuổi lớn khác của văn học thế giới để nhận giải Nobel lần thứ 106. Trong lời công bố của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, bà được mệnh danh là "bậc thầy của truyện ngắn đương đại". Munro là nữ nhà văn theo đuổi chủ nghĩa hiện thực tâm lý. Những câu chuyện thường có bối cảnh là những thị trấn nhỏ, nơi tưởng yên bình lặng lẽ nhưng ẩn chứa không ít xung đột, mâu thuẫn, căng thẳng xuất phát từ những khác biệt thế hệ, những va chạm đạo đức, tham vọng sống của con người trong xã hội... Munro cũng quan tâm tới phụ nữ và các cô gái trẻ, những vấn đề mà họ phải đối mặt trong cuộc sống ở những thị trấn nhỏ của bà. Các tác phẩm thời kỳ đầu của Munro thường nêu bật sự khác biệt giữa cuộc sống thời niên thiếu ở Wingham, một thị trấn bảo thủ phía Tây Toronro, cũng như những biến chuyển cuộc sống sau cách mạng xã hội những năm 1960. Trong một cuộc phỏng vấn với AP vào năm 2003, bà nói thời kỳ 1960 là "những năm tháng tuyệt vời". "Tôi sinh ra vào năm 1931, tới lúc đó, tôi cũng đã lớn nhưng không phải quá già. Những phụ nữ như tôi sau một vài năm đã được mặc váy ngắn và nhảy nhót". Có thể thấy, cuộc sống xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến các sáng tác của Munro. Các tác phẩm của Alice Munro. Ảnh Usa. Về văn phong, Alice Munro nổi tiếng với lối kể chuyện tinh tế, khúc chiết. Những chủ đề giản dị, thường thấy trong cuộc sống được thể hiện bằng lối viết dụng công ở chi tiết - dù chỉ miêu tả những câu chuyện hàng ngày, các chi tiết khi qua tay Munro đều tỏa sáng; và sắc nét ở nhân vật. Munro cũng được đánh giá là nhà văn đã "cách mạng hóa" cấu trúc của truyện ngắn - các tác phẩm thường bắt đầu ở một mốc bất ngờ, sau đó kể ngược về sau hoặc dịch chuyển về phía trước trong quỹ đạo thời gian, với kết thúc hết sức khó lường. Alice Munro được đánh giá là một bậc kỳ tài của thể loại truyện ngắn, thậm chí một số nhà phê bình từng gọi bà là Anton Chekov của Canada. Thế nhưng, bản thân Alice Munro từng không xác định mình sẽ gắn bó với thể loại này. "Trong nhiều năm, tôi cứ nghĩ rằng truyện ngắn chỉ là bước thực tập, và tôi sẽ viết tiểu thuyết vào một ngày nào đó. Sau đó tôi phát hiện, truyện ngắn là tất cả những gì tôi có thể làm, và tôi đối diện với nó. Tôi cho rằng những nỗ lực của tôi vào thể loại này đã được đền bù". Dù vậy, truyện ngắn của Munro thường được cho là giống tiểu thuyết hay là những tiểu thuyết thu nhỏ, không chỉ bởi độ dài của chúng mà còn bởi mật độ cuộc sống mà bà "nhét" vào tác phẩm. Kinh ngạc khi biết mình đoạt giải Nobel Thông qua NXB Penguin Random House, Alice Munro chia sẻ, bà rất ngạc nhiên và biết ơn giải thưởng của Viện Hàn Lâm Thụy Điển. "Tôi đặc biệt vui mừng vì chiến thắng này sẽ làm hài lòng nhiều người Canada. Tôi cũng rất hạnh phúc khi giải thưởng sẽ mang lại sự chú ý tới những nhà văn trên đất nước tôi". Thông tin giải Nobel đến với Alice Munro trong tình huống bất ngờ. Bà bỏ lỡ cuộc điện thoại thông báo của Viện Hàn Lâm khi đang tới thăm nhà con gái ở Victoria , British Columbia. Munro sau đó được con gái đánh thức vào lúc 4h sáng để thông báo tin mừng. Vài phút sau khi biết tin, nhận cuộc điện thoại từ Hãng truyền hình Canada, Alice Munro như vẫn còn đang chuếnh choáng "Dường như có điều gì đó thật huy hoàng đang xảy ra nhưng tôi không thể nào mô tả, nó nhiều đến mức tôi không thể nói ra bằng lời". Bà cũng không tin là mình lại được trao giải thưởng năm nay. "Tôi thực sự hy vọng giải thưởng này sẽ khiến mọi người nhìn nhận truyện ngắn như một thể loại nghệ thuật quan trọng, không chỉ là một thứ trò chơi cho tới khi bạn có được một cuốn tiểu thuyết trong tay", Alice Munro nói. Trong truyền thống của Viện Hàn Lâm, giải thưởng thường về tay các tiểu thuyết gia hoặc những nhà thơ mà ít khi chú trọng tới tác giả truyện ngắn - điều đã được dỡ bỏ qua trường hợp Munro năm nay. Alice Munro là nhà văn nữ thứ 13 giành giải Nobel Văn học. Bà cũng là người Canada đầu tiên nhận giải thưởng này. Trước đó, tác giả Saul Bellow sinh ở Canada cũng được trao giải năm 1976 nhưng đã chuyển tới sống ở Mỹ từ năm 1941. Hoàng Anh Quay lại trang chủ / Phát thanh / Tạp chí văn hóa 2013, lần đầu tiên giải Nobel Văn học được trao tặng cho một nhà văn Canada. Cũng lần đầu tiên Viện Hàn lâm Thụy Điển vinh danh một tác giả chuyên viết truyện ngắn Alice Munro, bậc thầy của truyện ngắn đương đại ». Dưới ngòi bút của Alice Munro, cuộc sống tẻ nhạt của những con người bình thường, những thân phận hèn mọn, đã trở nên sống động thần kỳ. Văn phong chân thực và giản dị của bà là chìa khóa đưa Munro đến Viện Hàn lâm Thụy Điển. Nhà văn Canada Alice Munro giành giải Nobel Văn học 2013. Ảnh chụp trong một sự kiện tại Toronto, Canada 2007. REUTERS/Mike Cassese/Files Trong cuộc trả lời phỏng vấn dành cho ban Việt Ngữ RFI, nhà văn Nguyễn Đức Tường từ bang Quebec cho biết thêm về vị trí của Nữ hoàng truyện ngắn, Alice Munro » trên văn đàn Canada, về văn phong của bà và nhất là vì sao Alice Munro, sau hơn một nửa thế kỷ cầm bút, mỗi tác phẩm của bà đều rất được chờ đợi. Bà được mệnh danh là một Tchekkov của Canada. Nhà văn Nguyễn Đức Tường nguyên là giáo sư Toán và Vật Lý tại Mỹ và Canada, nhưng đã đã có nhiều duyên nợ với văn chương. Ông từng là ban tập viên của tạp chí Thế Kỷ ủ giấc mơ viết văn từ bé, truyện ngắn đầu tay The Dimensions of a Shadow – Kích thước của một chiếc bóng » của bà được xuất bản năm 1950. Nhưng phải đợi đến cuối thập niên 1960 Alice Munro mới được độc giả biêt đến một cách rộng rãi qua Dance of the Happy Shades – Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc ». Những năm gần đây, chiếu cao nhất trên văn đàn Canada được giành cho hai nhà văn nữ nặng ký Magaret Atwood và Alice Munro. Hàng năm, cứ đến “mùa” Nobel là các tổ chức truyền thông Canada lại thi nhau tiên đoán ai sẽ được giải Nobel văn một góc đài là Magaret, già nửa thế kỷ trong nghề cầm bút với trên 50 cuốn sách/truyện đã xuất bản và mỗi lần ra mắt sách là một sự kiện – event. Góc bên kia là Alice, bà Hoàng truyện ngắn, cũng già nửa thế kỷ trong nghề cầm bút nhưng có vẻ nhẹ ký hơn, chỉ mới có 14 tập truyện đã xuất bản nhưng xuất hiện thường xuyên trên những tạp chí như The New Yorker, The Atlantic Monthly, The Paris Review... và được nhà văn Mỹ Jonathan Franzen ca tụnghết mình trên The New York Times nhân dịp tập truyện Runaway của bà được giải Giller 2004 lần thứ nhì, một giải văn học có hạng của Canada, kêu gọi đồng bào nên đọc này có lẽ rất quan trọng vì 10 năm trước, năm 1994, Munro xuất bản Open Secrets, bà được đề nghị cho giải thưởng văn học uy tín nhất của Canada lần thứ 5, Giải Toàn quyền Canada Governor General's Award. Nhân dịp này, tạp chí The Paris Review cũng đã gửi hai phóng viên đến nhà bà ở Clinton để phỏng vấn cho một bài viết về Nghệ thuật Hư này khác, ngày 10/10/2013, Viện Hàn lâm Thụy Điển thông báo Giải thưởng Văn học 2013 được trao về tay một nhà văn của Canada, Alice Munro, “bậc thầy của truyện ngắn hiện đại”! Đây là lần đầu tiên giải văn học này vinh danh một nhà văn chỉ viết truyện Munro là nhà văn nữ thứ 13 và là người phụ nữ Canada đầu tiên đã đoạt giải Nobel Văn học. Đúng ra, năm 1976 Saul Bellow, một tác giả sinh đẻ ở Lachine Quebec, cũng đã đoạt giải Nobel, nhưng vì năm lên 9 tuổi, Bellow theo gia đình sang Chicago rồi sau đó lấy quốc tịch Hoa Kỳ, nên trước Alice Munro, Canada vẫn chưa có ai được trao giải Munro, tên thật là Alice Ann Laidlaw, sinh ngày 10/07/1931 tại Wingham, một thị trấn nhỏ miền tây-nam Ontario, Canada. Năm 1949, cô được học bổng hai năm tại Đại học Western Ontario, chuyên về tiếng Anh và báo chí. Trong thời gian này cô cũng đồng thời phải làm đủ mọi thứ nghề hầu bàn, hái thuốc lá hay phụ việc thư viện, để phụ thêm học 1951, cô rời đại học để kết hôn với James Munro, một sinh viên cùng trường. Họ dọn nhà đi Vancouver, British Columbia, nơi James có việc làm với Eaton, một nhà hàng bách hóa lớn. Năm 1963, hai vợ chồng chuyển đến Victoria, mở tiệm sách Munro's Books. Ngày nay vẫn còn hoạt động. Họ có bốn cô con gái, nhưng một người đã qua đời và James ly dị vào năm 1972. Năm 1973 Munro trở lại Đại học Western Ontario, bây giờ với tư cách một nhà văn nội trú. Năm 1976, Alice kết hôn với Gerald Fremlin, một bạn cũ thời còn là sinh viên. Hai vợ chồng dọn về Clinton, cách nhà thời thơ ấu của bà ở Wingham chừng nửa giờ lái xe và ở đây, Fremlin đã qua đời năm 2013 ở tuổi 88. Dance of the Happy Shades » khúc quanh định mệnh Munro có ý định viết văn từ năm 12 tuổi, nhưng xuất bản tương đối muộn. Gần đây người ta phát hiện truyện ngắn đầu tiên, Kích thước của một Chiếc Bóng, The Dimensions of a Shadow, xuất bản năm 1950, đăng trong tạp chí đại học Folio, được tái bản năm 2011 trong tạp chí Her Royal Majesty số 12. Đây là lần đầu tiên Munro ở tuổi mười tám được phổ biến rộng rãi. Kích thước của một Chiếc Bóng kể truyện một cô giáo mới nhậm chức trong thị trấn, cô đơn đi bộ về nhà vào ngày cuối cùng của niên học, một mình với trí tưởng tượng và nỗi sợ hãi của mình. Giọng văn đượm chút irony như thể báo hiệu những gì sẽ đến trong tương 1968, ở tuổi 37, Alice Munro xuất bản tập truyện đầu tay, Dance of the Happy Shades – Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc. Với tác phẩm này Munro đoạt Giải Toàn quyền Canada, giải thưởng văn học hàng năm quan trọng nhất; bà sẽ còn đoạt giải này thêm hai lần of the Happy Shades cũng là tên một truyện ngắn trong tập truyện, lấy từ tiêu đề của bản dịch tiếng Anh của ba-lê/nhạc kịch Orpheus & Eurydice của Glück khi được trình diễn tại London lần đầu tiên. Vì liên hệ thần thoại này, chữ Shade ở đây cũng có thể chỉ một bóng ma, một cõi u minh nào đó – the Realm of the thần thoại Hy Lạp, đây là một chuyện tình rất thương tâm; Orpheus là một thi nhạc sĩ, tiếng nhạc của anh quyến rũ được thú hoang hay sỏi đá. Orpheus đi cứu vợ, Eurydice, từ thế giới bên kia; Hades, vua của cõi U Minh nhỏ lệ trước lời ca của Orpheus và cho Eurydice về dương thế, nhưng vì Orpheus phạm một lời nguyền nên vợ chết một lần nữa. Buồn bã trở về, Orpheus chết dưới bàn tay của kẻ thù không bị cảm hóa bởi âm nhạc thần thánh của mình, đầu anh ta trôi ra biển vẫn không ngừng ca hát. Trong vở nhạc kịch, Orpheus đau khổ, định tự tử, nhưng thần Tình yêu ngăn cản, cứu sống vợ để cho cả hai vợ chồng cùng về dương thế, happy điệu của những chiếc bóng hạnh phúc kể chuyện một bà giáo già độc thân và buổi độc tấu dương cầm hàng năm của học trò của bà. Học trò của bà gồm ít nhất hai thế hệ, cô bé kể truyện và mẹ của cô. Bà giáo ngày càng già, đời sống vật chất của bà ngày càng eo hẹp, chỉ có buổi độc tấu dương cầm là cố định, được sửa soạn với cùng một quan tâm vô tận và do đấy, vào buổi chiều tháng Sáu nóng bức này, trở nên có vẻ như không bao giờ ngừng cho những bà mẹ phải đi kèm con. Bà giáo già hoàn toàn vô tư trước cảnh những bà mẹ ngồi bồn chồn, chịu trận chờ cho đến hết. Nhưng lần này khác, khi tưởng như đã xong thì đột nhiên xuất hiện một đám trẻ con cùng có một chút gì khác lạ, khiếm khuyết, chừng mươi đứa, cũng là học trò của bà. Tài nghệ dương cầm của chúng trung bình như mọi trẻ khác cho đến khi bà giới thiệu đứa trẻ cuối cùng, một cô bé tóc bạch kim. Cô ngồi trước dương cầm, vụng về, đầu hơi cúi xuống rồi tiếng nhạc của cô bắt đầu lơ lửng trong không gian, bay qua cửa sổ ra ngoài đường phố mùa hè hừng hực nóng. Mọi người đã quen với những buổi biểu diễn dương cầm như thế này nhưng không ai chờ đợi được nghe âm nhạc. Có lẽ đến tận lúc cuối cùng của cuộc đời, bà đã tìm được một người để dậy Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc làm tiêu đề của toàn tập truyện, chắc hẳn Munro không đơn thuần chỉ chọn cái tên bắt mắt để bán sách mà phải rất đắc ý với câu chuyện. Tôi đọc ở đâu đó, Munro nghiên cứu rất cẩn thận khi viết lách, liên hệ giữa thần thoại Hy Lạp và bà giáo dương cầm già tất không phải chuyện tình cờ. Và như vậy những ngụ ý, ẩn dụ, ám chỉ... có thể có, nằm đâu đó trong truyện; xin để độc giả, qua thẩm định cá nhân, mỗi người một cách vui thích làm cuộc thám hiểm cho riêng Munro đã xuất bản tất cả 14 tập truyện; được Giải Toàn quyền Canada Governor General's Award 3 lần Dance of the Happy Shades 1968, Who Do You Think You Are? 1978 và The Progress of Love 1986; Giải Giller2 lần The Love of a Good Woman 1998 và Runaway 2004. Năm 2009 Munro được Giải thưởng Quốc tế Man Booker Man Booker International Prize cho toàn bộ tác phẩm, rồi tất nhiên, năm 2013,Giải Nobel Văn phong chân thực, giản dị của Munro Alice Munro được giải Nobel! Tất nhiên dân Canada vui mừng và hãnh diện, nhưng tình cảm này không nhất quán. Đã từ lâu, Alice Munro trở thành một tác giả tiếng tăm quốc tế về các hư cấu ngắn, không còn bắt buộc phải viết cho thị trường của các tác giả đang tìm cách đi lên ở trong nước. Đa số những độc giả truyện ngắn khám phá ra hư cấu của Munro lần đầu tiên trong các tạp chí bóng mượt của Hoa Kỳ như tờ The New Yorker và Atlantic Monthly. Nhà xuất bản của Munro là Random House, trụ sở ở Manhattan. Vì dân số Hoa Kỳ đông gấp mười lần dân số Canada tất nhiên số độc giả cũng đông, nhưng cốt lõi, Munro vẫn là một tác giả miệt vườn một thời tôi sống ở vùng hồ Huron, một trong năm Đại Hồ của Canada chụm lại với nhau, hồ bát ngát, gió thường tung sóng cao như biển. Một căn nhà gạch đỏ gọn ghẽ ở cuối đường, đánh dấu ranh giới của thị trấn, bên kia là cánh đồng chạy thoải xuống sông Maitland, có thể như Munro đã tả căn nhà thời thơ ấu, những cây ngô đã khô xào xạc trong cơn gió nhẹ, đây đó thêm mấy hàng cây phong. Lạ hơn là đôi khi giữa cánh đồng đột nhiên mọc lên một tiệm ăn rất sang, French cuisine; có một tiệm ở bên cạnh suối nước, có cả đập nước để sinh điện, điện còn thừa bán cho công ty điện lực Ontario. Tôi thường đi thử những tiệm ăn này mỗi cuối tuần, tôi hỏi mấy chốc họ vỡ nợ. Bạn đồng hành trả lời họ không trông đợi ở mình, họ chờ mấy fat cats có cottages ở dọc ven là xứ sở của Munro và cũng là sân chơi của những ông bự béo hay béo bự, phần lớn đến từ Toronto, hơn hai giờ lái xe; họ không là mẫu cho nhân vật của Munro. Mặc French cuisine hay Stratford Festival không xa, hàng năm trình diễn những vở kịch cổ điển hay đương đại, từ tháng Tư đến tháng Mười, thu hút khách thập phương, bầu không khí trong truyện ngắn của Munro luôn luôn là bầu không khí tỉnh lẻ nếu không nói miệt vật của Munro là những người bình thường của vùng này, ở quanh Wingham, nơi Munro sinh ra và lớn lên hay Clinton, nơi bà sống sau này. Ở đây, khi ánh sáng và bóng tối bắt đầu trộn lẫn trên cánh đồng đã cầy lên chờ mùa đông sắp đến, có thể họ lén lút làm tình trong các ruộng ngô, hay là những con người hung dữ nóng nẩy chạy rượu lậu, cuộc sống và hy vọng có thể bị nghiền nát trong khoảnh khắc một cuộc đối thoại. Văn phong của Munro chân thực, giản dị – như Wingham, nhưng rộn ràng với những cảm xúc chính xác, đã được giảm nhẹ đi. Dẫu vậy, nhiều khi hãy còn quá nhạy cảm cho một số người. Như truyện Giờ Chết The Time of Death. Đến ba thế hệ của một gia đình hãy còn hằn học với Munro chỉ vì chuyện một ông chú của họ qua đời, bỏng nước sôi khi mới được 18 tháng, giống như đứa bé Benny trong truyện. Như đã nói ở trên, Munro rất thận trọng làm nghiên cứu. Trong thư khố của tuần báo địa phương, có đến hai trường hợp đứa bé bị chết bỏng nước sôi; câu chuyện xẩy ra năm 1877 đăng trên tờ Huron Expositor giống truyện của Munro một cách kỳ lạ. Tuy vậy, theo một sử gia địa phương, “Khi tôi đọc Alice Munro, tôi không thể đọc bà ta như những người khác, tôi nhìn thấy rất nhiều Wingham ở trong đó, mặc dù tôi biết đó là truyện hư cấu.” Gần đây Alice Munro nói có ý định viết tiểu luận và đã viết một vài bài, tôi có đọc một bài bà viết nhưng bây giờ không nhớ ở đâu; còn lại tất cả các tác phẩm của bà đều là truyện ngắn, vậy thì câu trả lời dễ, gọn và an toàn nhất là Alice Munro được giải Nobel là vì bà là một “bậc thầy của truyện ngắn hiện đại”. Tôi cũng có thể nói một cách rất lương thiện là đó cũng là quan điểm của tôi. Munro viết về đời sống thôn dã vùng hạt Huron cùng những người sống trong vùng chính mình, kinh nghiệm của mình khi lớn lên, rồi gia đình và những người chung quanh. Thật sự, toàn là những người bình thường, không có gì đặc sắc, sinh hoạt đời thường lặp đi lặp lại, tẻ nhạt. Nhưng viết về con người bình thường trong hoàn cảnh bình thường, sống đời sống bình thường không bao giờ dễ; chỉ dưới ngòi bút thần diệu của một nhà văn bực thầy ta mới có thể thấy được những con người, hoàn cảnh hay đời sống đó không những có thể tin được mà còn sống động một cách thần kỳ. Đọc đi đọc lại vài truyện nhiều lần, tôi nhận thấy truyện của Munro mở ra từ từ dễ dàng nhưng cấu trúc hết sức tinh tế và chính xác, một cử chỉ nhỏ bất ngờ của nhân vật thường làm thay đổi sắc thái của cả câu chuyện. Munro kể lúc ban đầu viết truyện ngắn chỉ là tạm thời, sửa soạn cho truyện dài về sau. Rồi bà viết truyện dài, nhưng không bao giờ vừa ý nên lại cắt ra thành những truyện ngắn. Nhưng những truyện ngắn chừng mươi, mười lăm trang này chi tiết cô đọng như những truyện dài 200 trang. Theo biên tập viên của bà ở The New Yorker, “Truyện ngắn của Munro dường như rất đầy đủ, có tất cả các tính chất của một cuốn tiểu thuyết.” Và thêm,“Bạn cắt một câu tưởng như thừa ở đầu truyện để rồi về sau nhận ra câu đó là cần thiết.” Ngườiđi sau phải học người đi trước, nếu không ta sẽ tiếp tục phát minh lại cái bánh xe và văn minh của nhân loại sẽ đứng yên một chỗ; Munro tất nhiên phải học những nhà văn đi trước nhưng văn phong của Munro có nét vẻ riêng của Munro. Có người nói Munro là “Chekhov của chúng tôi.” Nhưng tại sao phải như vậy? Tại sao Munro không thể chỉ đơn thuần là Munro?“Boys and Girls” và thân phận Một truyện của Munro mà tôi đặc biệt ưa thích là Trai và Gái Boys and Girls. Văn viết uyển chuyển. Tâm lý sâu sắc. Diễn biến tế nhị. “My father was a fox farmer.” Munro vào truyện, rõ ràng, chính xác, không những không che dấu nguồn gốc khiêm nhượng, miệt vườn của mình mà còn như có vẻ ngạo mạn, thách Munro thường dùng cái thế giới mà bà biết rõ nhất, miền tây-nam Ontario, làm nền trong các tác phẩm. Trai và Gái là truyện xẩy ra ở vùng này trong đó Munro kể lại những năm thơ ấu của mình vào thời kỳ kinh tế suy gia đình sống trong một trang trại nuôi cáo, gồm cha làm nghề nuôi cáo, mẹ nội trợ và hai chị em, cô chị 11 tuổi là người kể truyện. Truyện tả sự trưởng thành của hai chị em, nhất là cô chị, với tất cả những bối rối gai góc của nó. Hai chị em thường phụ giúp cha, thằng bé em lóng ngóng làm việc lặt vặt nơi chuồng cáo, còn cô là người quán xuyến hết mọi việc. Cô cảm thấy vai trò của mình trong trang trại được đảm bảo; cha cô có lần nói chuyện với khách, chỉ cô giới thiệu, “Tay đàn ông phụ việc tôi mới thuê,” khiến cô đỏ mặt vì vui một bản nhạc gồm hai giọng chạy theo nhau, quyện lấy nhau. Hai cuộc đời triển khai theo nhịp sống của trang trại; phụ giúp cha trông nom, cho cáo ăn uống rồi giết cáo để lấy da. Cuộc đời tưởng như không có gì thay đổi, nhưng mùa đông này cô nhận ra rằng mẹ cô không muốn cô cả ngày lúi húi dưới chuồng cáo mà muốn cô giúp bà với việc trong nhà. Một trong những nét nổi bật nhất của câu chuyện là sự tương phản gợi ra bởi ý tưởng “cậu bé” và “cô gái”, luôn luôn phản ảnh trong mọi khía cạnh của thế giới người kể truyện. Truyện tiếp tục kể chi tiết về thời gian trong cuộc sống của cô khi cô qua khỏi thời thơ ấu, bỏ lại đằng sau sự tự do, nhận ra rằng mình là một “cô gái” và cuối cùng, một phụ nữ. Đứa trẻ bắt đầu hiểu rõ phân loại xã hội đòi hỏi những tác động nghiêm trọng. Do đó trở thành một “cô gái” trên đường đến phái nữ là một thời gian đầy khó khăn cho nhân vật chính bởi vì cô quan niệm phụ nữ thuộc giai cấp thấp hơn “đỏ mặt vì vui sướng” chỉ vì được bố gọi là tay đàn ông. Ban đầu, cô cố gắng chống lại nỗ lực của cha mẹ cố đào tạo cho cô những sở thích, thói quen, hành vi và công việc của một phụ nữ. Tuy nhiên, kháng cự này vô ích. Cô gái kết thúc câu chuyện rõ ràng là xã hội đã dành riêng một chỗ đứng cho cô, một cô gái; một cái gì đó làm cô lo sợ, ngại dù Munro không là người quan tâm đến nữ quyền một cách rõ ràng và thuyết phục, câu chuyện có thể được xem như một dụ ngôn, chứng minh hùng hồn công việc người phụ nữ cần làm để thay đổi vị trí xã hội của đời trôi đi, cho đến một hôm cô biết cha cô có ý định giết một con ngựa để nuôi cáo; không suy tính trước, cô thả con ngựa. Và đây cũng là lần đầu tiên trong đời cô không vâng lời cha, không những không đóng cửa trang trại mà còn mở rộng cho ngựa chạy ra. Thằng bé em đi theo bố suốt buổi để đuổi bắt rồi giết ngựa, trở về, quần áo dính máu, nó đã nghiễm nhiên chiếm chỗ của cô; không những thế nó còn mách lẻo với bố là cô đã giúp cho ngựa không ngạc nhiên về việc bố bắt lại được con ngựa nhưng ngạc nhiên thấy ông không tức giận và không trừng phạt cô; như cam chịu, đôi chút cởi mở, ông nói, “Nó chỉ là một cô gái.” Ngạc nhiên hơn nữa là phản ứng của cô gái trước câu nói của bố “Tôi không phản đối điều đó, ngay tự trong thâm tâm tôi. Có lẽ đó là sự thật.” Bữa cơm gia đình tối hôm đó là một bức tranh đẹp tuyệt vời.“I didn’t protest that, even in my heart. Maybe it was true.” Chấm hết, một ngày không tốt mấy cho nữ quyền. Dear Life was the title Munro gave to her 2012 collection of short stories — possibly her last. Some of the stories are inspired by the author's own life. If the other stories also explore the destinies of women, it never feels as if feminism were the main issue. Alice Munro has published 14 original short-story collections and several short-story compilations. With this body of work, she became the first Canadian woman to receive the Nobel Prize in Literature in 2013. She was too frail to travel to Stockholm to collect the award herself, but sent a touching speech by video instead. Building on a simple story Munro's stories combine linguistic and emotional density. They typically revolve around a series of recurring themes. They're about women in Canada, mothers and daughters, who grow up, fall in love, and experience the beautiful and tragic sides of life. "What makes Munro's growth as an artist so crisply and breathtakingly visible […] is precisely the familiarity of her materials. Look what she can do with nothing but her own small story; the more she returns to it, the more she finds," wrote the US author Jonathan Franzen about her a decade before she won the Nobel Prize. His impassionate piece in the New York Times listed reasons why he felt "her excellence so dismayingly exceeds her fame."A whole life on a single page "Munro writes about unfulfilled desires that are carried through one's life, and how people deal with them. It's the small details that make her so great," said Hans-Jürgen Balmes, formerly from the publisher S. Fischer, which distributes Munro's books in Germany. "She masters the art of capturing the entire life of a human being on a single page," literary critic Sigrid Löffler told DW. "She fills her stories, which are often no longer than 20 to 30 pages, with more life than many 700-page works." Her short stories are packed with emotion, the language highly polished. A Munro story often has an unexpected beginning, and the narrative develops chronologically forwards or backwards. "Dear Life" might be Munro's last collection of short storiesImage Getty Images/AFPHer books have long been best-sellers in Canada and the UK, and she became extremely popular in Germany after winning the Nobel Prize. Adding value to the short story Munro began writing relatively late. She first concentrated on raising her three children before she devoted herself to her writing by the end of the 1960s, around the age of 40. The author long wrestled with the notion that short stories are generally considered preparation work for a novel, seen as a minor genre by literary critics. "How I tortured myself trying to write a novel! Until I one day realized that short stories was the most appropriate format for me," she once told Die Zeit in a rare interview. As a specialist of the short story, even her book Lives of Girls and Women, told through one single character, was rather considered a short story cycle and not a novel. She obtained the Man Booker International Prize in 2009 for her lifetime body of work, which includes The Love of a Good Woman 1998 and Runaway 2004. She has also been awarded several other prizes and honors as well, topped by the Nobel Prize in 2013. Retirement plans — or not On July 10, the Canadian author turns 90. Although she had announced her retirement plans the year she received her Nobel Prize, she admitted afterwards that ideas still keep coming for new stories. She had also already hinted that she wanted to stop writing in 2006 "I don't think I can write any more. Two or three years from now, I will be too old, I will be too tired," she had told The Guardian. Six years later came the critically acclaimed collection Dear Life. As a sign she might be serious about retirement this time, though, she added a coda to the last four stories "I believe they are the first and last — and the closest — things I have to say about my own life." This article, translated from German, has been updated.

truyện ngắn alice munro